Căn cứ thử nghiệm vũ khí hóa học bí mật của Pháp

Thứ Sáu, 28/06/2013, 22:25

Đó là một khu vực rộng hàng ngàn kilômét vuông ở phía bắc sa mạc Sahara. Tại đấy quân đội Pháp đã thử nghiệm các loại vũ khí hóa học từ năm 1935 đến năm 1978. Bí mật quốc gia này chỉ được hé lộ nhờ cuộc điều tra của Vincent Jauvert.

Có thể xem đây là trung tâm thử nghiệm vũ khí hóa học (VKHH) lớn nhất thế giới, ngoại trừ Liên Xô. Một khu vực dài 100km và rộng 60km. Căn cứ tuyệt mật này do quân đội Pháp kiểm soát, nằm ở phía bắc Sahara, gần thành phố Beni-Wenif (Algeria). Mọi thông tin về nó được Chính phủ Pháp giữ kín trong suốt nhiều thập niên vì che giấu 3 điều dối trá.

Trước tiên, vì từ năm 1945 Pháp luôn chối bỏ là không hề thử nghiệm VKHH ngoài trời. Kế đến, Paris và Alger đều khẳng định rằng những căn cứ cuối cùng của Pháp tại Algeria đều đã đóng cửa vào năm 1968. Sau cùng là trong thỏa ước Evian trao quyền độc lập cho Algeria, B2-Namous nằm trong một phụ lục mật, được gia hạn vào năm 1967 và 1972.

Trong một báo cáo mật về B2-Namous, đại tá Moulin, Trưởng phòng VKHH và sinh học năm 1966, đã viết: "Từ sau Thế chiến thứ I, đã có nhu cầu về một khu vực đảm bảo mọi điều kiện an ninh để thử nghiệm các VKHH. Khu vực đó cần phải ít hiểm trở, khá xa vùng dân cư, dễ đến bằng đường bộ hoặc đường sắt, có khí hậu không khác với châu Âu, ít ra là trong phần lớn thời gian trong năm".

Vào năm 1935, giới quân sự đã chọn một cao nguyên đá vôi trong sa mạc Sahara. Thế là Trung tâm thí nghiệm Beni-Wenif ra đời, sau đó được đặt tên là B2-Namous. Tại đấy, trước Thế chiến II, Pháp đã chế ra một lượng lớn VKHH, chủ yếu từ khí mù-tạt và phosgène. Trong thập niên 50, các thí nghiệm tiếp tục tại B2-Namous. Nhưng việc nghiên cứu thuần túy bị ngưng lại.

Vào năm 1962, trước khi Algeria giành lại độc lập, giới quân sự Pháp vẫn muốn giữ lại B2-Namous. Căn cứ bí mật đó được đưa vào nghị trình của hội nghị Evian như mọi căn cứ chiến lược khác của Pháp trong Sahara. Bởi vì đối với De Gaulle và Debré, sự lớn mạnh của nước Pháp sẽ nằm tại vùng sa mạc đó. Sau nhiều cuộc thảo luận gay gắt, Pháp giữ lại được 4 căn cứ Reggane, In-Ekker, Colomb-Béchart và Hammaguir thêm 5 năm. Trung tâm B2-Namous cũng được gia hạn 5 năm và được đưa vào một phụ lục mật của thỏa ước Evian.

Đến năm 1967, mọi căn cứ của Pháp tại Algeria đều đóng cửa ngoại trừ B2-Namous. Trước đó 2 năm De Gaulle đã ra lệnh tiếp tục nghiên cứu về VKHH. Bộ trưởng Quốc phòng thời ấy là Pierre Messmer kể lại: "Người Mỹ đã nghiên cứu nhiều về lĩnh vực này, người Nga cũng làm như thế, các cơ quan tình báo của Mỹ đã cho chúng tôi biết. Vì thế chúng tôi không thể để bị tụt hậu".

Tại B-2 Namous có đến 400 người làm việc trong những giai đoạn thử nghiệm. Bãi bắn có 2 tháp cao 20m (để bắn và quan sát), 50 cột thu thập mẫu, 10km đường ống ngầm, 2 hầm nấp cho việc quay phim… Quả là một sự đầu tư khổng lồ.

Binh sĩ pháp tại B2-Namous.

Nhưng làm thế nào điều đình để giữ lại được B2-Namous? Ngày 31/1/1967 phân bộ Bắc Phi của Bộ Ngoại giao Pháp trình lên Ngoại trưởng Maurice Couve de Murville một báo cáo cho rằng, Algeria đang nghĩ sẽ phải trả tiền cho các trang thiết bị mà Pháp để lại. Như thế nếu Pháp tặng không một phần hay tất cả những thiết bị đó, điều này sẽ là một ưu thế trong cuộc điều đình. Và quả thật số thiết bị được định giá 50 triệu frăng đã được trao cho Algeria với giá 21 triệu frăng, được trả trong vòng 3 năm.

Nhưng tiền bạc chưa đủ để giải thích lý do chấp thuận của phía Algeria. Còn ít ra 2 lý do khác nữa. Trước tiên vì người Pháp không giải thích rõ tầm mức những cuộc thử nghiệm tại B2-Namous. Họ chỉ cho biết rằng đó là các nghiên cứu về phương pháp bảo vệ đối với những tác nhân hóa học. Thứ hai: đây là vấn đề cá nhân giữa 2 nguyên thủ. Tổng thống Boumediene không muốn từ chối với tướng De Gaulle. Và cuối cùng Algeria đã đồng ý gia hạn thêm 5 năm đối với căn cứ B2-Namous, chỉ với một đòi hỏi là  phải tuyệt đối giữ bí mật. 

Ngày 27/5/1967, thỏa ước được ký kết nhưng các điều kiện có thay đổi. Những nhân viên Pháp phải làm việc dưới danh nghĩa dân sự mà bình phong là chi nhánh Sodeteg của Hãng Thomson. Tất nhiên quân đội Pháp vẫn giữ quyền kiểm soát công việc. Việc canh phòng bên ngoài do quân đội Algeria đảm nhiệm. Phương tiện vận chuyển của Pháp đều phải bị xóa biên hiệu, vật liệu không phải khai hải quan.

Sau 5 năm vấn đề lại được đặt ra, lúc ấy VKHH đang bị báo chí công kích mạnh mẽ. Ngoài ra, mối quan hệ Algeria-Pháp không còn tốt đẹp như trước. Tổng thống Boumediene đã quốc hữu hóa các công ty dầu khí của Pháp. Nhưng phía Algeria vẫn tỏ ra thông cảm về vấn đề B2-Namous.

Thông cảm nhưng đòi hỏi. Họ yêu cầu phải cho nhân viên của họ tham gia vào việc nghiên cứu. Nhưng phía Pháp nại lý do bảo mật nên chỉ chấp nhận 5 hoặc 6 nhân viên Algeria, họ sẽ nhận được các kết quả thử nghiệm nhưng trước đó chúng đã được chắt lọc.

Algeria cũng muốn Pháp đào tạo chuyên viên của họ về VKHH. Người Pháp đồng ý, nhưng với điều kiện chỉ đào tạo ở Pháp, tại trường quân sự về vũ khí đặc biệt ở Grenoble. Dù sao thì B2-Namous cũng được gia hạn thêm 5 năm nữa. Đến năm 1978 căn cứ này bị phá hủy hoàn toàn nhưng việc thử nghiệm vẫn được tiếp tục tại Pháp cho đến năm 1987 mới bị bãi bỏ hẳn.

Sở dĩ người Pháp luôn mạnh miệng tuyên bố rằng không hề có một kho VKHH nào vì những thử nghiệm tại B2-Namous không dẫn đến việc sản xuất công nghiệp VKHH mà chỉ chế tạo ra các trang cụ bảo vệ

Minh Luân (theo Nouvel Observateur)
.
.