Điệp viên Al Qaeda 14 năm lừa CIA

Thứ Năm, 12/10/2006, 09:00

Tối 10/9/2006, Đài Phát thanh thông tin địa lý quốc gia Mỹ đã phát một chương trình mang tên "Đằng sau vụ 11/9: Điệp viên của Bin Laden tại Mỹ", tiết lộ về cuộc sống của Ali Mohamed, điệp viên của tổ chức khủng bố Al-Qaeda 14 năm nằm vùng tại Mỹ. Ali hiện vẫn đang bị giam giữ tại nhà tù Liên bang, cuộc đời của anh ta không khác gì cuộc đời điệp viên trong phim tình báo.

Sau khi chương trình này được phát sóng, rất nhiều người dân Mỹ tỏ ra hết sức phẫn nộ trước sự bất lực của các cơ quan tình báo nước này.

Trở thành điệp viên của CIA

Cho đến năm 29 tuổi, Ali Mohamed vẫn chỉ là một sĩ quan Lục quân của Ai Cập và đang được huấn luyện tại căn cứ quân sự Fort Bleger miền Bắc bang Carolina đại bản doanh của lực lượng đặc nhiệm Mỹ trong chương trình hợp tác trao đổi quân sự giữa Mỹ và Ai Cập. Sau khi nghe tin Tổng thống Ai Cập Sadat bị sát hại, Ali vô cùng đau khổ, anh ta đã không tiếc lời khen ngợi những cố gắng của ngài tổng thống và lực lượng Hồi giáo trong việc ký kết hiệp ước hòa bình với quân đội Israel. Trở về Ai Cập không lâu, Ali đã bị sa thải khỏi lực lượng quân đội về những tư tưởng và lời nói của mình.

Thế nhưng số phận đã quan tâm đặc biệt tới Ali, trong thời gian huấn luyện tại căn cứ Fort Bleger, Ali đã được các cơ quan tình báo Mỹ để ý. Cuối năm 1984, khi đang “ăn không ngồi rồi” tại nhà riêng, Ali nhận được nhiệm vụ đầu tiên từ CIA. Anh ta được đưa tới Đức, rồi tìm cách thâm nhập vào ngôi đền Alla, nơi tập trung của những phần tử cấp tiến Hồi giáo tại thành phố Humburg. Trong thời gian hoạt động tại Humburg, Ali rất cầm chừng trong các hoạt động thu thập tin tức tình báo cho CIA. Một mặt, những manh mối mà anh ta cung cấp vẫn đủ để CIA tin vào giá trị sử dụng của mình; mặt khác những thông tin đó cũng không nhiều đến mức khiến CIA nghi ngờ anh ta là một phần tử khủng bố.

Sau một năm làm việc tại Humburg, Ali được phép nhập cảnh và định cư lâu dài tại Mỹ. Mấy năm tiếp đó, Ali đã làm được một số việc như: cưới một cô gái Mỹ làm vợ, gia nhập lực lượng đặc nhiệm của Lục quân Mỹ, và được trở về căn cứ Fort Bleger làm việc.

Trong khoảng thời gian này, Ali bắt đầu mở rộng hoạt động với lực lượng Hồi giáo tại Mỹ. Anh ta đã nhận lời tham gia nhiều buổi nghiên cứu của lực lượng này. Quân đội và các cơ quan tình báo Mỹ cũng rất quan tâm tới những hoạt động của Ali, nhưng một số quan chức cao cấp đều nhận định đó là “tiếp xúc thân mật với quần chúng”. Việc này sẽ rất có lợi trong công việc thu thập thông tin về lực lượng Hồi giáo tại Mỹ. Do đó, trong thời gian tại Mỹ, Ali không hề bị giám sát, theo dõi. Ngược lại, với nhân thân đặc biệt của mình, anh ta càng có nhiều cơ hội hơn để tiếp xúc và thu thập được những tài liệu mật liên quan đến các hoạt động huấn luyện và tác chiến của lực lượng đặc nhiệm Mỹ.

Năm 1988, Ali đã qua mặt được các cơ quan tình báo và quân đội Mỹ để bay tới Afghanistan, giúp đỡ lực lượng du kích nước này chiến đấu với quân đội Liên Xô. Chuyến đi này đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống của Ali. Tại Afghanistan, Ali đã quen biết với Bin Laden, Zawaxiry cùng hàng loạt những phần tử khủng bố cộm cán khác trong lực lượng Hồi giáo. Nhiều tư tưởng cấp tiến của Ali hoàn toàn ăn khớp với Bin Laden. Sau khi được “tẩy não”, Ali nhận lời với Bin Laden, khi quay trở lại Mỹ sẽ làm nội gián cho Al-Qaeda.

Bí mật huấn luyện lực lượng khủng bố tại Mỹ

Về lại Mỹ, Ali được trọng dụng và được cử đến bang New Jersey, phụ trách việc điều tra hoạt động của lực lượng Muslin trong lãnh thổ Mỹ.

Tại New Jersey, Ali nhận được mệnh lệnh trực tiếp từ nhân vật số 2 của tổ chức Al-Qaeda vừa mới được thành lập là tuyển mộ và huấn luyện điệp viên là những người cấp tiến Muslin, và thành lập tại Mỹ một tổ chức cơ bản của lực lượng khủng bố. Tất cả hoạt động của những tổ chức này đều núp dưới khẩu hiệu “chống đối Liên Xô”, do đó, Chính phủ Mỹ đã không mảy may nghi ngờ và để mắt đến những hoạt động thực chất của chúng. Tại New York và một số nơi khác, Ali đã tiến hành huấn luyện cho những phần tử khủng bố của Bin Laden cách thức làm sao để đối phó được với các nhân viên tình báo, cách thức chế tạo mìn, đánh cắp máy bay hay mang thuốc nổ theo người mà vẫn có thể qua được các trạm kiểm tra an ninh. Ngoài ra, Ali đã quyên góp tiền trên đất Mỹ gửi cho Al-Qaeda, kịp thời cung cấp thông tin tình báo để tránh việc các thành viên trong tổ chức bị CIA  bắt.

Ali còn tiến hành dịch một cuốn sổ tay huấn luyện của quân đội Mỹ, làm thành cuốn giáo khoa huấn luyện dùng cho các phần tử khủng bố. Hai năm sau, Ali nghỉ hưu. Được sự quan tâm của FBI, Ali nhanh chóng xin được một chân phiên dịch trong văn phòng của cơ quan này tại San Francisco. Chủ ý của FBI vẫn là muốn nhờ anh ta tiếp tục giúp họ điều tra về hoạt động của lực lượng Hồi giáo cấp tiến tại Mỹ. Lợi thế này đã giúp Ali có đủ thời gian để đi khắp nơi liên hệ với các phần tử khủng bố.

Thượng khách của Bin Laden

Năm 1992, Ali trở lại Afghanistan, lần này là do lời mời của Bin Laden, đến huấn luyện các kỹ năng hoạt động cho các thành viên Al-Qaeda. Bin Laden coi Ali như một thượng khách, ăn cùng mâm, ngủ cùng lán, và trực tiếp tham gia các buổi huấn luyện của Ali. Giáo trình mà Ali dùng để huấn luyện, ngoài mục tiêu là Mỹ, còn nhắm đến cả Pháp, Anh và Israel.

Từ năm 1993 đến 1994, Ali nhận nhiệm vụ huấn luyện cho vệ sĩ bên cạnh Bin Laden. Anh ta trở thành cố vấn và điệp viên đầu tiên được trùm khủng bố này tin tưởng đến vậy. Trong những năm sau đó, Ali đã giúp Bin Laden thâm nhập thành công vào thủ đô Khartoum của Sudan, thậm chí còn sắp xếp cuộc gặp mặt giữa Laden với lãnh tụ quân sự đảng Alla tại Liban.

Cuối năm 1993, Ali bay tới thủ đô Nairobi, Kenya, tiến hành theo dõi Đại sứ quán Mỹ tại đây, giúp đỡ quân Al-Qaeda tiến hành cuộc tấn công bằng thuốc nổ sau đó. Năm 1995, Đại sứ quán Ai Cập tại Islam bị đánh bom, trong vụ này Ali là người chủ chốt. Ngày 7/8/1998, Đại sứ quán Mỹ tại Kenya và Tamzania gần như đồng thời bị tấn công bằng thuốc nổ, gây ra không ít thương vong.

Tháng 5 năm sau, Ali bị bắt do bị nghi ngờ có liên quan tới hoạt động khủng bố, nhưng lúc này, mạng lưới khủng bố của Al-Qaeda tại Mỹ đã được thành lập

Vũ Hạ (theo Washington Post)
.
.