Hệ thống kho dự trữ dầu chiến lược của Mỹ

Thứ Hai, 12/11/2007, 22:15
Ngày 12/11/2001, 2 tháng sau khi xảy ra sự kiện khủng bố kinh hoàng vào nước Mỹ ngày 11/9 và chỉ một tuần trước khi Mỹ phát động cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu bằng việc đưa quân đội tấn công Afghanistan, Tổng thống George W.Bush ra lệnh cho Bộ Năng lượng (DOE) khẩn trương mua thêm dầu thô để nâng mức dầu của Kho dự trữ dầu chiến lược (SPR) lên 700 triệu thùng (tương đương 111 triệu m3).

Trong trường hợp ban bố tình trạng khẩn cấp do chiến tranh hay gặp thiên tai, dịch bệnh, lượng dầu thô dự trữ này đủ để cung ứng nhiên liệu cho nước Mỹ trong vòng 57 ngày. Đây là lần đầu tiên trong suốt 34 năm thành lập, SPR đạt mức dự trữ cao kỷ lục như thế.

SPR được thành lập vào năm 1973 theo lệnh của Tổng thống Richard Nixon khi xảy ra khủng hoảng nhiên liệu toàn cầu phát sinh từ cuộc chiến giữa Israel và các quốc gia Arập vào tháng 10/1973. Để trả đũa việc Mỹ và nhiều quốc gia phương Tây ủng hộ Israel, các quốc gia Arập nhiều dầu mỏ ở vùng Vịnh quyết định giảm sản lượng khai thác dầu khiến thị trường dầu thế giới lâm vào khủng hoảng.

Nhằm tránh cho nền kinh tế, an ninh, quốc phòng, xã hội bị tác động xấu đối với nạn thiếu hụt dầu, Tổng thống Nixon ra lệnh cho Bộ Năng lượng gấp rút xây dựng kho dầu dự trữ chiến lược quốc gia, đồng thời đốc thúc Quốc hội biểu quyết thông qua Đạo luật về Chính sách năng lượng và Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên (EPCA).

Kho dầu Bayou Choctaw với hệ thống bồn được xây dựng nằm sâu trong lòng đất.

Tuy nhiên, cũng phải đợi khi EPCA được Quốc hội thông qua vào tháng 12/1975 thì việc nhập dầu dự trữ mới được triển khai sau khi Bộ Năng lượng hoàn thành việc xây dựng kho dự trữ dầu chiến lược đầu tiên tại thành phố Freeport, bang Texas. Đó là kho dầu Bryan Mound có sức chứa đến 226 triệu thùng dầu (36.600.000m3).

Vào ngày 21/7/1977, kho Bryan Mound tiếp nhận 412.000 thùng dầu thô dự trữ đầu tiên được nhập từ Arập Xêút. Một đại đội vệ binh bang Texas cùng nhiều tàu của hải quân có nhiệm vụ ngày đêm tuần tra bảo vệ kho Bryan Mound.

Năm 1980, sau sự kiện chính quyền cách mạng Hồi giáo bắt giữ các con tin người Mỹ tại Sứ quán Mỹ ở Iran, Bộ Năng lượng Mỹ tiếp tục cho xây dựng kho dự trữ dầu chiến lược thứ hai tại hạt West Hackberry gần thành phố Lake Charles, bang Louisianna nằm trên vùng vịnh Mexico, có sức chứa đến 219 triệu thùng dầu (35 triệu m3).

Kho West Hackberry gồm 17 bồn được xây dựng nửa chìm, nửa nổi có sức chứa từ 10 đến 15 triệu thùng dầu mỗi bồn với công suất bơm tối đa đến 1,25 triệu thùng dầu/ngày. Công tác bảo vệ kho dầu West Hackberry cũng nghiêm ngặt như tại kho Bryan Mound.

Big Hill là kho dự trữ dầu thứ ba được xây dựng vào năm 1987 và đưa vào sử dụng năm 1991, nằm gần thành phố Winnie, bang Texas, có sức chứa tối đa lên đến 160 triệu thùng dầu thô (25 triệu m3). Đến năm 1995, Bộ Năng lượng Mỹ tiếp tục cho xây dựng kho dự trữ dầu thứ tư có tên gọi kho Bayou Choctaw, nằm ở hạ lưu sông Mississipi gần thành phố Baton Rouge, bang Louisianna.

Điểm đặc biệt là các bồn dầu có tổng sức chứa 72 triệu thùng (11 triệu m3) của kho này đều nằm sâu trong lòng đất và được phủ bên ngoài một lớp muối hạt dày đến 50cm. Không chỉ được bảo vệ nghiêm ngặt từ mặt đất, kho Bayou Choctaw còn được giám sát trên không bằng vệ tinh.

Weeks Island là kho dầu dự trữ thứ năm và cũng là kho cuối cùng nằm trong hệ thống kho dầu dự trữ chiến lược của Mỹ. Kho Weeks Island được xây dựng từ năm 1999 trên cơ sở của một mỏ muối cũ trên đảo Weeks gần thành phố Iberia Parish, bang Louisianna. Các bồn chứa có tổng sức chứa 72 triệu thùng dầu (11 triệu m3) được xây chìm trong lòng đất và được bọc quanh bằng một lớp muối hạt dày 50cm.

Điểm đặc biệt là hệ thống bơm, ngắt, báo đầy, báo cháy của kho Weeks Island đều được tự động hóa hoàn toàn. Ngoài ra, kể từ sau khi xảy ra sự kiện khủng bố 11/9/2001, kho Weeks Island và 4 kho khác còn được trang bị hệ thống tên lửa phòng không có thể bắn hạ các máy bay xâm nhập vành đai bảo vệ an toàn trên không.

Theo quy định của Đạo luật EPCA, trong những trường hợp đặc biệt như khủng hoảng kinh tế thế giới gây ảnh hưởng đến nguồn cung ứng dầu thô, chiến tranh hay thảm họa thiên nhiên xảy ra, Tổng thống Mỹ có quyền ra lệnh cho Bộ Năng lượng mua dầu từ các nguồn khác nhau để nâng mức tối đa của các kho dầu dự trữ chiến lược lên đến trên 700 triệu thùng nhằm đảm bảo nguồn nhiên liệu cung cấp cho nền kinh tế, an ninh và quốc phòng không bị gián đoạn và thiếu hụt trầm trọng.

Trong trường hợp xảy ra thảm họa thiên nhiên gây ảnh hưởng hay gián đoạn việc mua và bán nhiên liệu của các tập đoàn dầu khí, Tổng thống Mỹ có quyền ra lệnh cho Bộ Năng lượng xuất bán một lượng dầu thô nhất định nhưng không vượt quá mức 6 triệu thùng dầu của kho dầu dự trữ chiến lược quốc gia cho các tập đoàn nhằm phòng tránh tình trạng khan hiếm nhiên liệu.

Ngoài ra, Tổng thống Mỹ còn có quyền quyết định cho đổi lượng dầu thô kém chất lượng (do phải dự trữ quá lâu) cho các tập đoàn dầu khí để nhận lại một lượng tương đương hay ít hơn dầu thô mới có chất lượng.

Ngoài chức năng đảm bảo cung ứng nguồn nhiên liệu cho nước Mỹ trong trường hợp xảy ra chiến tranh hay thảm họa thiên nhiên, kho dự trữ dầu chiến lược còn có nhiệm vụ điều tiết nguồn cung cầu dầu thô trên thế giới và là nhân tố làm tăng hay giảm giá dầu thô trên thị trường dầu thế giới.

Do giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với kinh tế, an ninh và quốc phòng của nước Mỹ nên các kho dầu dự trữ chiến lược còn là đối tượng tấn công phá hoại của các tổ chức khủng bố. Vào tháng 8/2005, FBI đã phá được âm mưu tấn công đốt cháy kho dầu Bayou Choctaw của một nhóm khủng bố có liên quan tới mạng lưới Al-Qaed

Văn Hòa (theo The Bulletin of DOE)
.
.