Khi CIA thâm nhập cả các giảng đường

Chủ Nhật, 20/11/2011, 11:10
Mọi người đều biết, với vỏ bọc là những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp,... CIA đã và đang có mặt khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, theo những tài liệu mới đây công bố thì một trong những hoạt động của CIA trong suốt thời gian qua tỏ ra vô cùng hiệu quả chính là hoạt động trong các trường học.

Họ thu tin ở trong nước, nước ngoài, tuyển mộ học viên Mỹ, học viên nước ngoài có khả năng phục vụ cho CIA. Bằng việc tài trợ cho các hoạt động hội thảo, du học, các dự án được triển khai trong các hoạt động giáo dục,... CIA đã che giấu rất tài tình các hoạt động của mình.

Mối quan hệ này được đánh dấu bằng "sự kiện Bolton". Đó là sự kiện giáo sư E.C. Bolton, lúc đó đang là Phó hiệu trưởng Trường đại học (ĐH) California, đã bí mật cộng tác với CIA, mở đầu cho việc dùng những mánh khóe xóa dấu vết liên hệ kết nối giữa các trường học với CIA. Từ đó qua việc thiết lập các chương trình giáo dục, CIA đã đưa các hoạt động của mình thành hoạt động điều tra hợp pháp. Dưới "kế hoạch Bolton", CIA đã tài trợ cho các khóa học một năm đối với các ứng viên được chọn.

Hoạt động của CIA trong các trường đã có thâm niên khá lâu. Từ năm 1955 đến 1959, Trường ĐH Michigan State cộng tác (bằng một hợp đồng 25 triệu USD) với CIA thi hành những nhiệm vụ như phác thảo tình hình chính quyền, cung cấp vũ khí, đào tạo cảnh sát phục vụ việc trấn áp của chế độ ở miền Nam Việt Nam (Ngô Đình Diệm). Năm 1956, CIA thành lập Asia Foudation, cung cấp 88 triệu USD mỗi năm, tài trợ việc nghiên cứu, hội thảo, trao đổi học tập, cấp tiền cho các trường có các hoạt động chống cộng sản ở nhiều quốc gia châu Á…

Những giảng đường đại học cũng là mục tiêu CIA nhắm tới.

Hoạt động của CIA bắt đầu với Phòng nghiên cứu quốc tế của Trung tâm Công nghệ, Viện Masssachusette (MIT, CIS) vào năm 1950. Tới năm 1952, cựu Giám đốc Văn phòng CIA Max Millikan trở thành giám đốc của Trung tâm. Năm 1955, CIA có một hợp đồng làm dự án "Brushfire" với Millikan đào tạo những nhà lãnh đạo về kinh tế, xã hội và chính trị cho những cuộc chiến tranh bên ngoài nước Mỹ.

Vào giữa những năm 50, các giáo sư ở MIT và Cornell đưa ra những dự án đào tạo bộ khung lãnh đạo quân đội và kinh tế ở Indonesia nhằm thay thế nhân sự sau cuộc đảo chính đưa Suharto lên nắm quyền. Bộ khung này được đào tạo ở Trung tâm nghiên cứu Nam và Đông Nam châu Á, Trường ĐH California do Guy Pauker, người được chuyển đến từ Phòng nghiên cứu nước ngoài của Trung tâm MIT, lãnh đạo.

Các trường học và Châu Phi

CIA đặc biệt quan tâm đến các chương trình giáo dục tại châu Phi. Một lần nữa, MIT lại đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường lợi ích cho CIA tại khu vực này. Năm 1956, khi cựu Giám đốc CIA  là Max Millikan làm lãnh đạo Phòng nghiên cứu nước ngoài của Trung tâm MIT, ông ta đã chỉ định Arnold Rivkin từ Bộ Ngoại giao Mỹ đến để lãnh đạo chương trình nghiên cứu châu Phi của MIT. Theo đó 2 người đã giám sát việc nghiên cứu cho CIA sử dụng.

Sự quan tâm sâu sắc của CIA đến các trường học chuyên nghiên cứu về châu Phi được chứng minh trong một nghiên cứu của tổ chức Ford. Năm 1958, Ủy ban những người châu Phi của Tổ chức Ford bắt đầu điều tra nghiên cứu về tình trạng hiện tại và triển vọng tương lai của giáo dục châu Phi. Theo như bản nghiên cứu này thì CIA cần một số lượng khoảng 70 người chuyên nghiên cứu về châu Phi, muốn những người này được đào tạo ở các lĩnh vực kinh tế, địa lý và khoa học chính trị. 

Sự kiện sau đây là một ví dụ điển hình cho sách lược của OIA: Năm 1968, George Rawich, một giáo sư xã hội học ở Đại học Oakland đã được Jame R Hooker, ở Trung tâm nghiên cứu châu Phi của Trường đại học Michigan tiếp cận để tuyển lựa cho CIA. Hooker là một giáo sư danh tiếng, đã dùng phương pháp thuyết phục. Phương châm của Hooker khi làm việc cho CIA là: Chúng ta không thể có tin tức khi không có người của chúng ta bên trong.

Lợi dụng dân chủ ở Trường Rutgers

Năm 1968, CIA sử dụng Viện Nghiên cứu Eagle tại Trường ĐH Rutgers trong một kế hoạch nhằm gây ảnh hưởng đến kết quả bầu cử tổng thống ở Guyana. Qua Viện Nghiên cứu Eagle, CIA đã tác động nhằm thay đổi Hiến pháp Guyana cho phép người Guyana và người gốc Guyanna ở nước ngoài được bỏ phiếu vắng mặt. Kết quả là 16.000 lá phiếu được làm ở New York đã giúp ứng cử viên của CIA là Forbes Burnham thắng sát nút ứng cử viên của phe xã hội chủ nghĩa, Cheddi Jagan.

Năm 1984, Giáo sư Richard Mansbach, Trưởng khoa Chính trị của Trường Rutgers, đã sử dụng một lớp học dưới chuẩn (người học không cần kiến thức) làm vỏ bọc cho một dự án có tên là "Những diễn viên không tổ quốc ở châu Âu"( ENSAP).

Khi châu Âu chống lại đợt tấn công tên lửa Cruise và Pershing II của Mỹ vào Tây Âu, Mansbach đã phân công cho những học viên của mình tập trung nghiên cứu từng phần trong văn hóa, chính trị Tây Âu gồm: giải trừ vũ khí quân bị, tôn giáo, lao động, truyền thông, cánh tả, môi trường và nhiều lĩnh vực khác. Các học viên cung cấp cho Mansbach những bài viết nghiên cứu sâu và Mansbach nhào nặn thành những tin tức mật cho CIA. Ai cũng nghĩ rằng những nghiên cứu này không có giá trị cho đến khi sự thật được phơi bày.

Gần đây CIA khởi xướng chương trình tạm gọi là "Nhân viên trong nhà" (Officer in Residence) nhằm tăng cường sự hiện diện và uy tín trong các trường học ở Mỹ. Theo một quan chức CIA thì khoảng 10 trường lớn đã qua chương trình này.

Stanley M. Moskowitz, Trưởng ban tuyển lựa và đào tạo của CIA đã viết: Chương trình "nhân viên trong nhà" cho phép những nhân viên cao cấp không phải bận rộn với nhiệm vụ của mình vì họ hóa thân hoàn toàn vào công việc trong các trường học như nghiên cứu, giảng dạy. Chương trình này cũng thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa CIA với kho kiến thức đa dạng ở các trường học và nâng cao chất lượng tuyển lựa người của CIA bằng cách  tạo cơ hội cho những nhân viên giàu kinh nghiệm có những vai diễn thích hợp, thuyết phục những học viên được quan tâm tiếp cận cơ hội làm việc với CIA và giải đáp những vấn đề học viên có thể gặp phải với cơ quan tình báo.

Tuyển lựa trong các trường học

Tuyển lựa trong các trường học là chiêu thức mà CIA sử dụng từ khi mới thành lập. Vào cuối những năm 40 thế kỷ trước, Frank Wisner, Giám đốc Văn phòng điều phối chính sách  của CIA (OPC), đã sử dụng 500 sĩ quan kỳ cựu OSS  trong Thế chiến II về làm công tác tại các trường học sau chiến tranh, ngay sau đó họ đã lập ra một "ủy ban tuyển lựa" và trở thành cơ quan tuyển lựa không chính thức của OPC. "Nguồn P" hay nguồn giáo sư của OPC được biết đến. Những ủy ban này có nhiều cách thức lý tưởng để tìm kiếm được những ứng viên tiềm năng cho việc tuyển lựa vì họ có thể quan sát các học viên qua các lớp học.

Đến đầu những năm 50, chương trình đã được mở rộng đến việc tuyển chọn học viên nước ngoài học tại các trường ở Mỹ phục vụ cho CIA, coi những học viên này như là những "đê chắn sóng" khi họ về nước. Việc tuyển lựa học viên nước ngoài có gốc rễ từ các chương trình được thiết lập vào cuối những năm 30 và qua những năm 40 khi Mỹ tiếp nhận các học viên từ những quốc gia làm bạn với Mỹ vào học trong các trường quân sự. Mỹ mong muốn những người này khi trở về cố quốc sẽ trở thành những nhà lãnh đạo quân sự chủ chốt ở đất nước họ và thông qua họ, Mỹ hy vọng có thể lấy thông tin và gây ảnh hưởng đến những quốc gia này.

Sau khi tuyển mộ được học viên nước ngoài, CIA thường dùng phương pháp ép buộc bằng cách đe dọa sẽ tiết lộ những điểm yếu trong thân nhân của họ nhằm yêu cầu họ tiếp tục hợp tác. Từ năm 1948, hơn 40 nhân viên nước ngoài được tuyển lựa đã tự tử vì sợ bị lộ.

Tháng 6/1986, David Wise báo cáo rằng CIA thực hiện việc tuyển lựa người như là việc ưu tiên chính. Những nỗ lực này thể hiện bằng việc mở 11 trung tâm tuyển lựa ở khắp nước Mỹ. Wise viết rằng các cuộc điều tra học viên vẫn tiếp tục được tăng cường và mở rộng. John P Little John, giám đốc phụ trách nhân sự của CIA mô tả quá trình tuyển lựa như sau: Người tuyển lựa có bản lý lịch của ứng viên trước, có bản nhận xét của nhà trường và thực hiện việc tuyển lựa qua một cuộc phỏng vấn ngụy trang. Cuộc phỏng vấn này thường được tiến hành tại trường, tuy nhiên trong một số trường hợp như Trường Havard thì họ yêu cầu cuộc phỏng vấn diễn ra ở nơi khác.

Các ứng viên tiềm năng của CIA phải hoàn thành bản lý lịch cá nhân 12 trang, qua máy kiểm tra nói dối, qua các kiểm tra về thể lực, tâm lý và đôi khi là bệnh tâm thần, và một cuộc kiểm tra hoàn cảnh xuất thân rõ ràng ít nhất trong thời gian 4 tháng. Theo như Little John, khoảng 150.000 người  được điều tra về công việc mỗi năm, 10.000 trường hợp được trình lên và khoảng 1.000 người được thuê làm việc và ước tính khoảng 200-300 người này sẽ trở thành nhân viên chính thức.

Hoạt động của CIA tại trường Havard

Trong khi những thông tin về các chương trình tuyển người của CIA trong các trường được giữ bí mật thì các nhân viên hành chính hiển nhiên biết được. Chi tiết về những cuộc tuyển người được trình bày cho 8 hiệu trưởng của những trường danh tiếng nhất ở Mỹ trong một cuộc họp bí mật, ở khách sạn Mayflower, Washington vào mùa xuân năm 1976.

Hiệu trưởng Trường Havard, Derek Bok, thành lập một ủy ban chuyên viết những bản tin cung cấp cho CIA tại trường. Ngược lại CIA đã tài trợ cung cấp các phương tiện đào tạo trong trường học. Từ tháng 6/1978 đến 1979, CIA đã có một tập những "Bản tin đặc biệt" của nhiều trường học để sắp xếp những cuộc tuyển lựa bí mật trong các trường.

CIA cam đoan rằng, những luật lệ của trường sẽ không bị ảnh hưởng. Giám đốc CIA Turner đã gửi một bức thư cho Bok phàn nàn về quyền của người Mỹ giúp CIA khi họ thực sự tự nguyện, ông ta cũng nói rằng việc tuyển chọn người ở các trường học rất tiện vì được ngụy trang bằng việc làm trong trường học của họ chứ không phải chỉ làm nhân viên CIA thuần túy.

Tuy nhiên CIA đã vi phạm lời hứa với Trường Havard ít nhất với hai trường hợp gần đây được đưa ra ánh sáng. Năm 1986, Giáo sư Nadav Safran, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu các vấn đề ở Trung Đông đã từ chức sau khi tiết lộ rằng ông ta đã bí mật nhận tiền của CIA để viết cuốn sách về Arập Xêút  và sắp xếp một hội nghị về Trung Đông tại trường.

Năm 1985, một quan chức của Trung tâm nghiên cứu quốc tế Trường Harvard cũng gây nên một vụ việc tương tự khi ông này thực hiện các nghiên cứu do CIA trả thù lao.

Không dễ phát hiện hoạt động của CIA trong các trường học mặc dù nhiều vụ việc đã được đưa ra ánh sáng sau một thời gian không còn giá trị nữa. Hoạt động này cũng từng gặp sự phản ứng từ phía các học viên, họ yêu cầu chấm dứt các hoạt động trên của CIA trong các trường học. Ở Đại học Colorado, trên 500 học viên đã bị bắt trong vài ngày phản đối hoạt động tuyển mộ của CIA.

Tuy nhiên, khi nhiều hoạt động này bị tiết lộ, CIA sẽ tìm các biện pháp để đảm bảo bí mật của họ trong các trường. Xem ra nhiều học viên vẫn đang được tìm kiếm và rằng CIA hoạt động trong môi trường giáo dục là một ý tưởng không tồi trong việc khai thác tối đa vốn quý của các trường học

Lương Lan (theo The CIA on campus)
.
.