Trận địa hàng đầu của NATO thu thập thông tin tình báo từ khối Warsaw

Thứ Hai, 22/01/2018, 20:30
Trong bài viết đăng trên trang War On The Rocks, Egemen Bezci, chuyên gia nghiên cứu lịch sử tại Đại học Nottingham (Anh) đã trích dẫn các tài liệu được giải mật trong hồ sơ lưu trữ của một số nước phương Tây và Bulgaria cho thấy Thổ Nhĩ Kỳ từ lâu đã tiến hành nhiều chiến dịch bí mật tại các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là Liên Xô - quốc gia dẫn đầu khối Hiệp ước Warsaw đối trọng với NATO.

Tình trạng thù địch giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Bulgaria bắt nguồn từ cuối thế kỷ XIX. Sau khi Bulgaria giành được độc lập từ tay đế chế Ottoman vào năm 1878, cộng đồng người Thổ Nhĩ Kỳ thiểu số bắt đầu di dân sang bán đảo Anatolia (Tiểu Á). Sự tụt giảm dân số Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục gia tăng trong các cuộc chiến tranh Balkan thứ nhất và thứ hai từ năm 1912-1913, khi Liên đoàn Balkan do Bulgaria cầm đầu lãnh đạo đã gây chiến với đế quốc Ottoman để chiếm phần lãnh thổ còn lại tại khu vực này.

Quân Bulgaria tấn công cứ điểm của quân Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc Chiến tranh Balkan lần thứ nhất 1912–1913 (tranh của Jaroslav Vešín).

Hậu quả là hàng trăm ngàn người Thổ Nhĩ Kỳ ở Bulgaria lũ lượt kéo nhau di cư sang Anatolia. Mối hiềm khích giữa hai nước tiếp tục kéo dài sau khi Bulgaria, nước láng giềng phía tây bắc của Thổ Nhĩ Kỳ, gia nhập Hiệp ước Tam cường vào năm 1941 để đứng về phe Trục trong Thế chiến thứ II, một động thái đưa lực lượng Đức Quốc xã đến ngưỡng cửa Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ chỉ xem Bulgaria là mối đe dọa thật sự khi nước này liên minh với Liên Xô và chính phủ cộng sản lên cầm quyền vào năm 1947.

Cho rằng cộng đồng người Thổ Nhĩ Kỳ thiểu số còn sót lại ở Bulgaria bị ngược đãi và sự tăng cường quân sự của Bulgaria khiến Thổ Nhĩ Kỳ vào thập niên 1950 phải xem đây là mục tiêu tình báo hàng đầu và là khu vực mà các đồng minh phương Tây của chính quyền Ankara quan tâm đáng kể.

Trong 2 năm 1950 - 1951, chính phủ Bulgaria đã nới lỏng các hạn chế di dân đối với cộng đồng người Thổ Nhĩ Kỳ thiểu số. Kết quả là gần 1/4 triệu người Thổ Nhĩ Kỳ rời Bulgaria về cố quốc. Cũng trong thời gian này, Khối Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) quyết định đưa Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp vào kế hoạch quân sự nhằm bảo vệ Địa Trung Hải.

Dù 2 nước này chỉ trở thành thành viên NATO một năm sau đó, cả hai nước đã đảm nhiệm các sứ mệnh huấn luyện quân sự của Mỹ. Một văn bản được soạn thảo vào tháng 2-1951 được đăng tải trên website của NATO cho thấy, Ủy ban An ninh NATO, vốn đảm trách “bảo vệ liên minh khỏi nguy cơ phá hoại”, đã lo ngại việc các điệp viên từ Liên Xô và các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa có thể trà trộn vào những người di cư Thổ Nhĩ Kỳ trở về từ Bulgaria.

Ảnh chụp từ trên không khu vực Ludogorie ở đông bắc Bulgaria.

Tuy nhiên, như Cơ quan tình báo phản gián (MI-5) đã thông báo cho NATO trước đó, nguy cơ xâm nhập của những người cộng sản từ Bulgaria đã được Cơ quan An ninh quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ (MAH) “xử lý rốt ráo”.

Sau khi Thổ Nhĩ Kỳ chính thức trở thành thành viên của NATO vào năm 1952, Cơ quan Tình báo quân sự G-2 của Thổ Nhĩ Kỳ và MAH đã đồng bộ hóa mục tiêu và chính sách cho phù hợp với các yêu cầu của NATO. Dù cần nhiều sự hỗ trợ về kỹ thuật tình báo của NATO, người Thổ Nhĩ Kỳ vẫn có nỗ lực riêng.

Theo chuyên gia Egemen Bezci, Cơ quan tình báo Thổ Nhĩ kỳ đã theo đuổi các chiến dịch riêng chống khối XHCN. Hồ sơ lưu trữ của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy, chính quyền Ankara bắt đầu tập trung nguồn lực tình báo vào chương trình hạt nhân và hoạt động sản xuất uranium của Liên Xô. Vào giữa thập niên 1950, thông qua những điệp viên tuyển dụng từ người Thổ Nhĩ Kỳ di cư từ Bulgaria, MAH có thể khám phá quá trình vận chuyển uranium từ mỏ Buhova của Bulgaria đến Liên Xô để làm giàu, và đã chuyển thông tin này cho NATO.

Đến năm 1960, Thổ Nhĩ Kỳ và các đồng minh phương Tây muốn khám phá thông tin chi tiết về các hệ thống tên lửa gần khu vực Ludogorie ở đông bắc Bulgaria. NATO biết có sự hiện diện của hệ thống này, nhưng người Bulgaria cũng đã xây dựng các bệ tên lửa giả để đánh lạc hướng.

NATO đã yêu cầu Thổ Nhĩ Kỳ giúp vẽ chi tiết vị trí của những hệ thống trên. Lần này, MAH cũng tuyển mộ một nhóm người di cư xâm nhập trở lại Bulgaria để họ thu thập thông tin. Sứ mệnh bí mật được tiến hành trót lọt, những thông tin thu thập được đã đến tay Ủy ban Tình báo của NATO thông qua G-2.

Các nỗ lực của tình báo Thổ Nhĩ Kỳ ở Bulgaria cũng đã mở rộng từ việc ban đầu chỉ thu thập thông tin tình báo sang hoạt động bí mật. Hồ sơ giải mật của Cơ quan Lưu trữ quốc gia Anh đã hé lộ một hành động như thế của Thổ Nhĩ Kỳ do phái bộ Anh ở thủ đô Sofia ghi nhận.

Năm 1956, chỉ huy khu vực của MAH, thiếu tá Kamil Bey, đóng tại thành phố vùng biên Kirklareli, đã tuyển dụng một nhóm người di cư từ Bulgaria tham gia các hoạt động phá hoại ở nước này, bao gồm các mục tiêu quân sự và kinh tế. Những người này được cấp tiền mặt, thiết bị truyền phát được mã hóa, vũ khí và các tài liệu giả.

Theo chuyên gia Egemen Bezci, chi tiết về những mục tiêu và kết quả của các sứ mệnh bí mật này dù đã hơn nửa thế kỷ cho đến nay vẫn chưa được công bố.

Q.H. (tổng hợp)
.
.