Vụ cướp máy bay bí ẩn nhất lịch sử

Thứ Ba, 19/06/2018, 12:57
Trong suốt quá trình hoạt động của ngành Hàng không dân dụng Mỹ, đã từng xảy ra khá nhiều vụ cướp máy bay đòi tiền chuộc nhưng chưa từng có vụ nào lạ lùng và bí ẩn như vụ cướp chiếc Boeing 727-100, số hiệu N467US, bay từ Portland, bang Oregon đến thành phố Seattle, bang Washington, xảy ra vào ngày 24-11-1971. Thủ phạm sau khi nhận được 200.000USD tiền chuộc (tương đương 1.210.000USD hiện nay) thì nhảy dù biến mất.

Sau hơn 40 năm truy tìm nhưng không kết quả, tháng 7-2016, Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) mới quyết định đình chỉ điều tra nhưng vẫn đề nghị nếu ai có thêm bằng chứng, xin hãy nhanh chóng cung cấp cho họ…

Bài 1: Dan Cooper có phải là tên thật?

Tôi có 1 quả bom

14 giờ 20 phút ngày 24-11-1971, một người đàn ông khoảng 40 tuổi, xách chiếc cặp màu đen, đến quầy vé của hãng hàng không Northwest Orient Airlines tại sân bay quốc tế Portland. Ông ta khai tên mình là Dan Cooper rồi trả tiền mặt để mua một chiếc vé đi từ Portland, bang Oregon đến thành phố Seattle, bang Washington. Trên đường bay này, cứ 30 phút Hãng Northwest Orient Airlines lại có một chuyến.

Chân dung không tặc Dan Cooper do FBI vẽ lại theo mô tả của các nhân chứng.

14 giờ 50, Cooper cùng 35 hành khách lên chiếc Boeing 727-100, số hiệu N467US và ngồi vào ghế 18C. Trong lúc chờ đến giờ cất cánh, Cooper hút một điếu thuốc lá rồi đề nghị tiếp viên mang cho một ly rượu bourbon pha soda. Sau này, lúc vụ cướp đã xảy ra, những hành khách ngồi cạnh Cooper mô tả: “Ông ta cao khoảng 1,78 đến 1,8m, mặc quần đen, áo sơ mi trắng, thắt cravat đen có nẹp một chiếc ghim bằng kim loại màu vàng đính ngọc trai, bên ngoài khoác áo khoác màu đen, đi giày loại không buộc dây - hay còn gọi là “giày lười”.

Khoảng 15 phút sau khi cất cánh, Cooper vẫy cô tiếp viên Florence Schaffner đang ở gần đó rồi đưa cho cô một mảnh giấy. Nghĩ rằng đây chỉ là trò hò hẹn của những gã đàn ông cô đơn khi phải xa nhà mà cô vẫn thường gặp nên Florence Schaffner mỉm cười rồi bỏ vào túi. Tuy nhiên, Cooper đứng lên, ghé sát vào tai cô thì thầm: “Thưa cô, cô nên đọc nó. Tôi có 1 quả bom”.

Rồi ngay lập tức, Cooper cho tay vào túi áo Florence Schaffner lấy mảnh giấy ra, dí sát vào mặt cô tiếp viên. Schaffner kể: “Hàng chữ “tôi có 1 quả bom” được cắt từ những mẫu tự in trên một tờ báo nào đó rồi dán nó lại. Đợi tôi đọc xong, ông ta chỉ vào ghế bên cạnh, bảo tôi ngồi xuống. Tiếp theo, ông ta mở khóa kéo của chiếc cặp, cho tôi nhìn thấy một cái ống hình trụ khá lớn với những sợi dây điện màu đỏ.

Chiếc Boeing 727 tại sân bay Porland trước lúc bay đi Seattle tối ngày 24-11-1971.

Ông ta nói: “Yêu cầu cô báo cho phi công biết tôi cướp máy bay để đòi tiền chuộc, và số tiền là 200.000USD. Khi máy bay hạ cánh xuống Seattle, nó phải được tiếp thêm nhiên liệu, tiền phải được mang lên cùng 4 chiếc dù, 2 dù lưng và 2 dù bụng. Nếu không làm đúng lời tôi, máy bay sẽ nổ tung và chắc chắn sẽ không ai sống sót”.

Hồn vía lên mây, tiếp viên Florence Schaffner vội vã bước vào phòng lái. Nghe xong câu chuyện, cơ trưởng William Scott lập tức gọi đài kiểm soát không lưu ở sân bay Seattle - Tacoma rồi chỉ 2 phút sau đó, Cơ quan quản trị hàng không liên bang Mỹ (FAA), Văn phòng FBI ở Seattle và FBI liên bang đã nắm được thông tin. Theo yêu cầu của FBI, cơ trưởng William Scott thông báo cho hành khách biết là do gặp phải những luồng không khí đối lưu nên máy bay sẽ hạ cánh xuống Seattle muộn hơn thường lệ.

Ở dưới đất, Chủ tịch Hãng Northwest Orient là Donald Nyrop nhanh chóng quyết định sẽ nộp tiền chuộc cho tên không tặc vì ông không muốn sinh mệnh hành khách bị tổn hại, ảnh hưởng đến uy tín của hãng. Chấp thuận yêu cầu của Donald Nyrop, FBI đề nghị cơ trưởng William Scott cho máy bay lượn vòng trên trời khoảng 2 tiếng để Hãng Northwest Orient có đủ thời gian chuẩn bị tiền, đồng thời cũng để FBI đủ thời gian thực hiện các biện pháp nghiệp vụ với 4 chiếc dù và số tiền ấy.

Lúc này, trên máy bay, tiếp viên Schaffner thông báo cho Cooper biết mọi yêu cầu của ông ta đều sẽ được đáp ứng. Cô nhớ lại: “Có vẻ như Cooper rất quen thuộc với địa hình vì lúc nhìn ra cửa sổ, ông ta nói: “Dưới đó là Tacoma, còn căn cứ Không quân McChord chỉ cách sân bay Seattle-Tacoma 20 phút lái xe”.

Vẫn theo tiếp viên Schaffner, thái độ của Cooper bình tĩnh và lịch thiệp, hoàn toàn không phù hợp với khuôn mẫu của những kẻ không tặc như vẫn thường thấy mô tả trên báo chí. Tina Mucklow, một tiếp viên khác kể thêm: “Ông ấy không có hành động hay lời nói gì liên quan đến bạo lực. Tất cả hành khách trên máy bay chẳng ai biết là đang bị cướp. Lúc bảo tôi lấy thêm ly bourbon thứ hai, ông ấy trả tiền đàng hoàng rồi nói khi hạ cánh xuống Seattle, tôi nên báo với mặt đất cung cấp bữa ăn cho phi hành đoàn…”.

Biến mất

17 giờ, đại diện Hãng hàng không Northwest Orient giao cho FBI số tiền chuộc rút ra từ các ngân hàng khu vực Seattle, gồm 10.000 tờ 20USD, có ký tự bắt đầu bằng chữ  L và số series từ 1963A đến 1969, phát hành bởi Ngân hàng Dự trữ Liên bang San Francisco. Tiếp theo, họ cho tất cả vào trong một cái túi lớn cùng 4 chiếc dù dân sự vì Cooper không đồng ý lấy dù quân sự.

Phi hành đoàn của chiếc máy bay bị cướp, từ trái qua: cơ trưởng Scott, cơ phó Rataczak, tiếp viên Mucklow và kỹ sư an toàn bay Anderson.

17 giờ 29 phút, chiếc Boeing 727 hạ cánh xuống sân bay Seattle-Tacoma. Theo lệnh Cooper, cơ trưởng Scott đưa máy bay đến một khu vực riêng, xung quanh có đèn chiếu sáng nhưng tất cả mọi cửa sổ trên máy bay đều phải đóng kín. Người đại diện của Hãng Northwest Orient sợ Cooper hiểu nhầm mình là cảnh sát và sẽ cho nổ bom nên anh ta mặc bộ quần áo thường dân, khoác chiếc túi chứa tiền đi bộ đến cầu thang sau đuôi máy bay, đưa cho tiếp viên Mucklow.

17 giờ 50 phút, Cooper thả hết hành khách, kể cả tiếp viên Schaffner và tiếp viên trưởng Alice Hancock, chỉ giữ lại cơ trưởng Scott, cơ phó Rataczak, tiếp viên Mucklow và kỹ sư an toàn bay Anderson. Trong quá trình tiếp thêm nhiên liệu, Cooper yêu cầu khi cất cánh, máy bay phải bay theo hướng đông nam, về phía thành phố Mexico với tốc độ không đổi là 190km/giờ ở độ cao 1.300m. Trong khi bay, bộ càng bánh xe cất, hạ cánh không được thu vào.

Cơ phó Rataczak kể: “Tôi cho Cooper biết cấu hình nhiên liệu của chiếc Boeing 727 chỉ có thể bay được 1.600km nên nếu muốn đến Mexico City thì phải tiếp thêm một lần nhiên liệu nữa. Suy nghĩ một lát, ông ta đồng ý đáp xuống sân bay Reno, bang Nevada”.

19 giờ 40, chiếc Boeing 727 cất cánh với cửa lên xuống phía sau không khóa. Và mặc dù đài kiểm soát không lưu đã phản đối vì lý do an toàn nhưng Cooper vẫn ra lệnh cho cơ trưởng Scott bay lên. Liền lập tức, 2 máy bay phản lực chiến đấu F-106 được điều từ Căn cứ Không quân McChord bám theo nó, 1 chiếc bay bên dưới còn 1 chiếc bên trên để Cooper không thể nhận ra.

Bên cạnh đó, 1 chiếc Lockheed T-33 đang bay huấn luyện cũng nhận được lệnh phải bám theo chiếc Boeing  ở một khoảng cách an toàn nhưng khi bay đến gần ranh giới bang Oregon, California, nó phải quay về vì hết xăng.

Khi chiếc Boeing 727 đã lên đến độ cao 1.300m, Cooper ra lệnh cho tiếp viên Mucklow vào buồng lái với phi hành đoàn, đóng cửa lại đồng thời tắt hết đèn trong máy bay. Mucklow kể: “Tôi thấy ông ta đeo chiếc dù vào lưng và thứ gì đó ở ngang eo. Ông ta cũng chỉ mở duy nhất một chiếc đèn dùng để đọc sách ở ghế gần sát cửa lên xuống”.

Cơ trưởng Scott kể tiếp: “Đến hơn 20 giờ, đèn cảnh báo áp suất không khí trong buồng lái chớp sáng, cho biết cánh cửa sau đã được mở ra. Tôi nói qua loa phóng thanh rằng nếu cần thì chúng tôi sẽ hỗ trợ nhưng Cooper không trả lời”.

20 giờ 13 phút, phía đuôi của máy bay xuất hiện một chuyển động rồi sau đó mọi sự lại trở nên bình thường. 22 giờ 25, chiếc Boeing 727 đáp xuống sân bay Reno trong vòng vây trùng điệp của đặc vụ FBI, của cảnh sát thành phố Reno, cảnh sát bang Nevada, lực lượng đặc nhiệm SWAT, đội tháo gỡ bom mìn cùng vô số những chiếc xe chữa cháy, xe cứu thương. Khi máy bay vừa dừng lại trên bãi đỗ thì một xe chuyên dụng lập tức áp sát cửa lên xuống. 6 đặc nhiệm SWAT ập vào nhưng khoang máy bay trống trơn, Dan Cooper đã biến mất.

Cơ trưởng Scott nói: “Tôi đoán ông ta đã nhảy dù  xuống một nơi nào đó ở bang California vì lúc đèn cảnh báo thay đổi áp suất trong khoang hành khách sáng lên thì có lẽ cũng là lúc ông ta nhảy ra. Đó chính là lý do vì sao ông ta bắt buộc chúng tôi phải bay với tốc độ không đổi là 190km/giờ, độ cao 1.300m vì với những điều kiện ấy, cửa máy bay mới có thể mở ra được…”.

Việc kiểm tra lập tức được tiến hành. FBI thu được 66 mẫu vân tay tại những nơi mà Cooper chạm đến theo lời tường thuật của tiếp viên Mucklow cùng chiếc cravat đen có nẹp ghim vàng của Cooper và 2 chiếc dù, còn quả bom thực chất chỉ là chiếc bình oxy - loại thường dùng cho thợ mỏ, có gắn thêm một mớ dây điện ngụy trang...

Một nghi phạm tên DB Cooper, ở bang Oregon - người đã từng có một tiền án lập tức bị FBI thẩm vấn vì nghi ngờ anh ta có liên quan, hoặc đã cho tên không tặc sử dụng tên tuổi của mình để mua vé nhưng sự nghi ngờ nhanh chóng được giải tỏa vì DB Cooper có đủ các bằng chứng ngoại phạm.

Tuy nhiên, oan gia cho anh ta là James Long, phóng viên của một tờ báo địa phương đã nhanh nhảu tung thông tin này lên báo, dẫn đến phóng viên Clyde Jabin của hãng tin UPI, Joe Frazier của hãng tin AP và nhiều phóng viên khác đều viết rằng kẻ không tặc tên là DB Cooper.

Song song với việc điều tra, một số chuyên gia trong lĩnh vực hàng không được FBI mời đến. Sau khi tính toán tốc độ bay, độ cao, tốc độ gió, độ dạt của dù, họ tiến hành làm một thử nghiệm. Bằng chính chiếc Boeing bị cướp, cơ trưởng Scott cất cánh cùng một khối hàng nặng 91 kg - tương đương trọng lượng của tên không tặc và túi tiền rồi thả dù. Kết luận cho thấy Cooper có thể đã nhảy ra trong khoảng thời gian từ 20 giờ 13 phút đến 20 giờ 15 phút, vì lúc đó, chiếc Boeing đang bay qua một cơn mưa lớn trên sông Lewis ở phía tây nam bang Washington.

Và bởi vì khoang hành khách đã tắt hết đèn, Cooper nhảy ra dựa vào đèn đọc sách nên phi công của 2 chiếc phản lực chiến đấu F 106 không thể nhìn thấy. Theo dự đoán, Cooper đã đáp xuống một khu vực nằm ở cực nam của núi St. Helens, vài dặm về phía đông nam thành phố Ariel, bang Washington, gần hồ Merwin, một hồ nước nhân tạo hình thành bởi con đập trên sông Lewis…

Vũ Cao (theo FBI Files)
.
.