Đông Nam Á bất lợi với Thỏa thuận Mỹ - Trung giai đoạn I

Thứ Ba, 25/02/2020, 15:15
Thỏa thuận thương mại giai đoạn 1 giữa Mỹ - Trung Quốc chính thức có hiệu lực từ ngày 14-2. Ngoài cam kết tăng cường mua hàng hóa và dịch vụ trị giá 200 tỉ USD trong vòng 2 năm của Mỹ, quyết định của Trung Quốc ngày 18-2 miễn áp thuế bổ sung đối với 696 loại hàng hóa của Mỹ được coi là động thái mới nhất trong bối cảnh Bắc Kinh tìm cách thực hiện đầy đủ các cam kết của mình trong thỏa thuận nhiều bước này.

Dù là đợt miễn giảm lần thứ 3 và cũng là đợt lớn nhất từ trước đến nay, song thỏa thuận giai đoạn một này vẫn đang bị xem làm chệch hướng thương mại toàn cầu, đặc biệt là mối lo ngại đối với khu vực Đông Nam Á.

Sau gần 2 năm căng thẳng, Mỹ và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận thương mại giai đoạn một. Giới chức cả hai nước đã nhanh chóng lên tiếng hoan nghênh việc ký kết thỏa thuận, cho rằng đây là cơ sở để hai bên có cái nhìn lạc quan hơn về các bước đàm phán tiếp theo. Cả Bắc Kinh và Washington đã mô tả thỏa thuận giai đoạn 1 là một bước đi quan trọng sau nhiều tháng đàm phán bế tắc trong bối cảnh hai bên thực hiện áp đặt các biện pháp thuế lẫn nhau, gây xáo trộn các chuỗi cung ứng toàn cầu và gây quan ngại về một sự giảm tốc trầm trọng hơn của nền kinh tế toàn cầu.

Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát trên thế giới vẫn tỏ ra khá thận trọng. Thành tựu chính của thỏa thuận thương mại Mỹ-Trung giai đoạn 1 là làm dịu tình trạng leo thang căng thẳng các đòn trừng phạt thuế quan, khi cả hai bên đồng ý hủy bỏ các kế hoạch tăng thuế mới. Thế nhưng, thỏa thuận lại hầu như không cải thiện được tình hình hiện nay khi không dỡ bỏ được thuế quan hiện có đối với lượng hàng hóa trị giá hơn 500 tỷ USD giao dịch song phương giữa Mỹ và Trung Quốc.

Các cuộc thảo luận về những vấn đề hóc búa nhất như trợ cấp nhà nước đã được gác sang một bên và để lại cho thỏa thuận giai đoạn 2 trong tương lai. Các nhà quan sát thương mại bày tỏ quan ngại về nội dung của thỏa thuận yêu cầu Trung Quốc mua thêm 200 tỷ USD các sản phẩm của Mỹ trong 2 năm tới. Thỏa thuận liệt kê cụ thể khoảng 549 sản phẩm mà Trung Quốc sẽ phải mua từ Mỹ, bao gồm các sản phẩm nông nghiệp, chế tạo và liên quan đến năng lượng.

Giới chuyên gia cho rằng, vẫn còn nhiều rủi ro tiềm ẩn trong giai đoạn tiếp theo của cuộc đàm phán thương mại Mỹ – Trung.

Một số lo ngại xoay quanh khả năng Trung Quốc có thể thực hiện cam kết tăng mua hàng từ Mỹ và rủi ro gia tăng đối với tăng trưởng kinh tế Trung Quốc.

Tuy nhiên, có lẽ, mối quan tâm nhất liên quan đến việc Mỹ chuyển sang áp dụng phương thức “thương mại quản lý”. Việc đưa các yêu cầu nhập khẩu đối với Trung Quốc vào thỏa thuận thương mại có nguy cơ vi phạm các quy tắc thương mại toàn cầu, làm méo mó và chuyển hướng thương mại thế giới. Đây chính là mấu chốt của vấn đề. Khả năng gây méo mó và chuyển hướng thương mại thế giới đe dọa gây ra một tương lai u ám cho các nhà xuất khẩu ở Đông Nam Á vì khi Trung Quốc tăng nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ sẽ khiến các nước khác trong khu vực phải trả giá.

Phân tích gần đây cho thấy, các nước xuất khẩu nông nghiệp như Brazil, Liên minh châu Âu (EU), Australia và New Zealand có thể chứng kiến nhu cầu nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp từ Trung Quốc suy giảm khi nước này tăng mua sản phẩm của Mỹ. Tương tự, các nguồn hàng sản xuất bên ngoài nước Mỹ như EU, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng có thể bị ảnh hưởng, trong khi các sản phẩm liên quan đến năng lượng trong danh sách 549 sản phẩm nói trên sẽ ảnh hưởng đến các nhà xuất khẩu các sản phẩm này ở Vùng Vịnh và Australia.

Các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á cũng sẽ không tránh khỏi bị ảnh hưởng. Trong số các nền kinh tế xuất khẩu chính trong khu vực, Malaysia sẽ là quốc gia bị ảnh hưởng lớn nhất, khi có tới 83% hàng xuất khẩu của nước này sang Trung Quốc (trị giá 52,7 tỷ USD) tương tự 549 sản phẩm được nêu trong thỏa thuận thương mại Mỹ-Trung giai đoạn 1. Do đó, Malaysia có nguy cơ mất thị phần cho các nhà sản xuất Mỹ.

4 loại hàng hóa xuất khẩu của Malaysia dễ bị tổn thương nhất bao gồm hàng điện tử và các bộ phận và thiết bị điện; thực phẩm và sản phẩm đồ uống; hóa chất công nghiệp và kim loại; các sản phẩm liên quan đến năng lượng như dầu mỏ, dầu cọ. Sau Malaysia, các nền kinh tế bị tác động nhiều nhất ở Đông Nam Á là Philippines và Singapore với lần lượt 82% và 66% hàng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi thỏa thuận thương mại giai đoạn 1.

Với Philippines, các sản phẩm có nguy cơ bị ảnh hưởng chủ yếu là các mặt hàng nông sản như dừa, trái cây và các loại hạt. Với Singapore, các sản phẩm có nguy cơ bị ảnh hưởng bao gồm tủ lạnh và ổ đĩa, hóa chất công nghiệp như phenol, dầu mỏ và các hợp chất hữu cơ. Việt Nam và Thái Lan sẽ ít chịu tác động hơn do có chưa đến 65% hàng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi thỏa thuận thương mại giai đoạn 1. Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu ngũ cốc, rau và các sản phẩm cá của Việt Nam cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu hóa chất và sản phẩm rau của Thái Lan cần cảnh giác.

Mặc dù thỏa thuận giai đoạn 1 làm giảm bớt những quan ngại về khả năng tiếp tục leo thang căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, song nó cũng gây ra những rủi ro và những ẩn số mới, đặc biệt là làm cho chủ nghĩa bảo hộ thương mại và thuế quan trở thành điều bình thường mới. Kể từ đầu năm 2020, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã mở rộng áp đặt thuế quan đối với sản phẩm thép và nhôm nhập khẩu theo Mục 232 của Đạo luật Mở rộng thương mại năm 1962 vì lý do an ninh quốc gia, thiết lập một quy tắc cho phép Mỹ áp thuế quan đối với hàng xuất khẩu từ bất kỳ nước nào bị coi là "kẻ thao túng tiền tệ" và hiện đang xem xét rút khỏi Thỏa thuận mua sắm chính phủ của Tổ chức Thương mại Thế giới.

Các nhà quan sát thương mại không thể hài lòng khi “người đàn ông thuế quan” còn đang nắm quyền.

Quang Nguyễn
.
.