Làng di sản bên sông Cầu

Thứ Ba, 28/04/2020, 22:44
Có một ngôi làng cổ trứ danh rất đặc biệt bên bờ Bắc sông Cầu. Đặc biệt ở chỗ gọi là làng, lại ở nông thôn mà chẳng hề có đất cho sản xuất nông nghiệp, mật độ dân số đông như thành phố và giá đất quê nhưng cao ngang đô thị.

Và đặc biệt hơn, ngôi làng ấy được ví như “làng di sản” bởi hội tụ rất nhiều giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể độc đáo bao đời nay, trở thành điểm đến của nhiều du khách.

Dấu ấn thời gian

Trên bước đường công tác, chính tôi cũng không thể nhớ nổi mình đã có bao nhiêu lần đặt chân đến Thổ Hà, một làng cổ nằm bên dòng sông Cầu thuộc xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Chỉ nhớ lần đầu tiên cách đây đã ngót hai mươi năm. Cảm giác khi đó thật kỳ lạ. Những ngõ nhỏ, đường xương cá đều tăm tắp, thẳng hàng. Cây đa, bến nước, mái đình cùng những nếp nhà cổ xinh xắn rêu phong đã cuốn hút không chỉ tôi mà còn nhiều du khách.

Lễ hội truyền thống Thổ Hà.

Làng Thổ Hà có ba mặt giáp sông, muốn đến được đây chỉ có hai con đường là từ Bắc Ninh đi đò ngược qua sông Cầu và từ Bắc Giang xuôi xuống bằng đường bộ. 

Thổ Hà là một trong số ít làng cổ mà các thiết chế văn hóa ở đây đã đi vào nhiều công trình nghiên cứu văn hóa, vào những lời ca câu hát mà bất cứ người dân nào ở nơi đây cũng có thể nhớ nằm lòng vài ba câu để “tấu” lên mỗi dịp hội hè hay buổi gặp mặt. Đó là một trích đoạn tuồng cổ, là một trổ dân ca quan họ, là những lễ hội chuẩn mực lệ cổ và thậm chí là cả ca trù... 

Và những công trình kiến trúc truyền thống mang đậm dấu ấn một làng quê Bắc Bộ chính gốc như: Cây đa, giếng nước, sân đình... Tất cả đã được ghi danh di sản văn hóa ở cấp quốc gia. Các di sản hội tụ ở đây để rồi thấm vào từng vỉa đất, mạch nước, chắt chiu và lan tỏa trong đời sống, tâm hồn mỗi người dân Thổ Hà.

Đưa tôi đi thăm làng, vào tận sâu trong những ngõ nhỏ, con hẻm ấy là một màu đỏ cũ kỹ của những bức tường gạch chỉ lát nghiêng. Ông Trịnh Đắc Thiện, người từng có một thời gian dài trước đây làm cán bộ văn hóa xã Vân Hà tự hào kể về một loạt các di sản độc đáo ở Thổ Hà. 

Đó là từ chuyện thời kỳ phong kiến, làng quê này từng được nhà vua ban sắc “Mỹ tục khả phong” cho đến những ngôi nhà cổ có tuổi đời bằng mấy đời người. Rồi lễ hội làng độc nhất vô nhị mà chẳng thể giống ở bất cứ đâu trên đất nước Việt Nam. “Phải trực tiếp đến đây tham dự các sự kiện của làng mới thấy nó khác biệt, sinh động và đậm đà đến thế nào”, ông Thiện khoe.

Thổ Hà có những con ngõ đến kỳ dị, nó nhỏ đến nỗi chỉ vừa đủ cho hai người đi bộ lách tránh nhau và phía trên đỉnh đầu được người dân tận dụng để phơi bánh đa nem. Thế mà hàng trăm năm nay người dân vẫn sinh sống như thế, nó đã trở thành “đặc sản”, nói cách khác là bản sắc của vùng quê này. Ngày nay trước tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường, người dân nơi đây vẫn bảo lưu khá nguyên vẹn những truyền thống lễ giáo, gia phong tốt đẹp. 

Theo dân làng, cổng làng Thổ Hà được xây dựng thế kỷ XVII (năm 1692), với kiến trúc bề thế, bức đại tự trên cổng làng có ghi: Thổ chi tân (Đất thiêng bền); Hà nguyên hậu (nước nguồn vô tận, phúc lộc trời ban cho làng Thổ Hà còn dài mãi). Người Thổ Hà trọng tình, mến khách vì vậy cổng làng còn là một trong những điểm đến trong hành trình của nhiều du khách. Khách đến nhà chơi lần đầu chủ ra đón ở chính cái cổng ấy. Khách về cũng vậy, cứ bắt tay nhau, vỗ vai nhau ở đây đến bịn rịn, lưu luyến khôn nguôi. 

Hát dân ca quan họ trên sông Cầu.

Ở Thổ Hà còn một điều hiếm có nữa, bởi dấu tích của nghề gốm vang bóng một thời vẫn còn hiển hiện trong những bức tường cổ, nhiều ngôi nhà được xây toàn bằng những mảnh gốm vỡ hay tiểu sành phế phẩm, không dùng chút vôi vữa nào, chỉ dùng bùn sông Cầu để kết dính mà vẫn trầm mặc, bền chặt qua nắng mưa, tháng ngày.

Trong quá khứ, nghề gốm ở Thổ Hà từng sánh vai cùng những trung tâm gốm nổi tiếng như Phù Lãng, Bát Tràng. Tiếc rằng, vào những năm 80 của thế kỷ XX, hàng chục lò gốm ở đây phải “tắt lửa”. Đương nhiên, người dân Thổ Hà đã rất nhạy bén chuyển sang nghề làm bánh đa nem, bánh đa nướng, nấu rượu, nuôi lợn để kiếm kế sinh nhai. 

Bẵng đi một thời gian, người trong làng chẳng mấy ai còn thiết tha với gốm, thì đến năm 2006, một nông dân trong làng được xem là “người hùng” đã bỏ số tiền lớn, công sức theo đuổi giấc mộng vực dậy nghề truyền thống. Một nhiệm vụ cao đẹp đã thành công và nghề gốm tuy chưa thể trở lại thời vàng son song việc vẫn còn được duy trì ở làng cổ này một lò gốm cũng là một tín hiệu đáng mừng.

Đắm say câu quan họ

Trong số rất nhiều di sản của làng cổ Thổ Hà có lẽ dân ca quan họ là thứ dễ khiến du khách mềm lòng và say đắm nhất. Đứng trên bờ đê sông Cầu, tôi cảm nhận được một không gian thật nên thơ, tĩnh mịch, cảnh tượng trên bến, dưới thuyền với cái mênh mang của sóng nước dạt dào. Trong suy nghĩ bất giác của tôi, biết đâu những làn điệu quan họ cổ như “Gọi đò”, “Ngồi tựa mạn thuyền”, "Giã bạn"… được ra đời từ chính không gian ấy. 

Hóa trang vào các nhân vật lịch sử là một trong những nghệ thuật còn được duy trì ở Thổ Hà.

Bằng lối chơi giản dị nhưng vẫn giữ được lề lối cổ xưa, các liền anh, liền chị nơi đây đã tạo nên chất riêng. Nghệ nhân ưu tú Phú Hiệp - Chủ nhiệm CLB Quan họ Thổ Hà được xem là người “biết đủ lối, thuộc đủ câu” trải lòng rằng: Nói đến Thổ Hà là nói đến quan họ. Quan họ của làng có nét độc đáo mà khắp vùng Kinh Bắc không đâu có được, đó là cảnh hát trên sông. 

Bao năm chơi quan họ, liền anh, liền chị Thổ Hà chưa bao giờ cảm thấy hổ thẹn với tiền nhân bởi lối chơi không dễ dãi, đặc biệt là chưa bao giờ thấy ai phải phàn nàn việc "ngả nón xin tiền". Họ chơi vì đắm đuối, hát bằng trái tim chứ không nặng chuyện tiền nong, thóc lúa. Anh hai Hiệp bảo: Hát quan họ thì dễ, nhưng  chơi quan họ thì không phải làng nào và ai cũng hiểu và làm được. Chơi thì thanh tao, khiêm nhường, có lề, có lối và đắm đuối hết lòng. 

Khách du lịch đến Thổ Hà đều ước ao được nghe các liền anh, liền chị trổ vài ba câu quan họ cổ. Có người bảo dân Thổ Hà sao chẳng thức thời, ngần ấy di sản cha ông để lại mà chẳng thể biết cách làm du lịch, khách đến nghe hát, các liền anh liền chị chỉ cần biểu diễn là có thù lao, thậm chí làm tốt thì còn.. sống khỏe. Thế nhưng Nghệ nhân Ưu tú Phú Hiệp từng có lúc phải thốt lên: “Không phải người dân chúng tôi không ý thức được việc phát triển du lịch nhưng quả thực còn nhiều băn khoăn lắm”. 

Bản thân nghệ nhân Hiệp từng hát dân ca quan họ phục vụ nhiều đoàn khách trong nước và quốc tế khi về làng nhưng “Khi xong xuôi tất cả lại về”, chỉ có những tràng pháo tay và lời khen ngợi. “Người quan họ rất ngại nói đến tiền bạc nên cứ “đành lòng vậy, cầm lòng vậy”, liền anh Phú Hiệp nói. Bởi vậy cái nghề làm bánh đa nem, cộng thêm cắt tóc ở cổng làng chính là cái “cần câu cơm” và xa hơn là để tiếp sức cho bản thân nghệ nhân Hiệp thể hiện sự đam mê, gắn bó với di sản.

Tam Đa ở lễ hội Thổ Hà.

Còn theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Mai, Phó trưởng khoa Du lịch (Viện Đại học Mở Hà Nội): Để biến tiềm năng thành sản phẩm du lịch đòi hỏi nhiều yếu tố, vì du lịch là ngành tổng hợp và tính liên ngành. Ở Thổ Hà cần đáp ứng các điều kiện như: Vận chuyển, lữ hành, lưu trú, điểm tham quan và ăn uống, nhưng hiện tại điểm mạnh ở đây chỉ mới có điểm tham quan, các yếu tố còn lai rất hạn chế. 

Đây là lý do khiến các doanh nghiệp lữ hành khó tiếp cận, khai thác dịch vụ và đưa khách đến, do đó phần lớn du khách đến Thổ Hà hiện nay là tự phát, các nhóm nhỏ và hầu như không lưu trú. Do đó vấn đề ở đâu là cần nâng cấp tuyến đường bộ tiếp cận làng, bến thuyền và các phương tiện chuyên chở, bố trí bãi đỗ xe, khu dịch vụ…

Đương nhiên cũng có ý kiến cho rằng, phát triển du lịch ở Thổ Hà cần bảo đảm hài hòa để không ảnh hướng tới di sản, tránh những tác động tiêu cực làm phá vỡ cảnh quan, môi trường tự nhiên lẫn môi trường văn hóa. Ngoài ra còn phải có những cơ chế rõ ràng để người dân hưởng lợi trực tiếp từ hoạt động du lịch.

Và nỗi khổ truyền đời

Làng Thổ Hà ba mặt giáp sông nên không có đất giãn dân, việc xây mới các công trình công cộng, phúc lợi như trường học, nhà văn hóa, sân thể thao... lại càng khó khăn. Trưởng thôn Cáp Trọng Việt khẳng định: Việc lo chỗ ở cho người sống đã khó, nơi mai táng cho người chết cũng luôn là vấn đề cấp thiết. Ngôi làng diện tích chưa đầy 0,2km² ấy có tới hơn 970 hộ với gần 4 nghìn nhân khẩu sinh sống. Ngần ấy nhân khẩu trong một làng mà nơi chôn cất cho người qua đời chỉ vẻn vẹn chưa đầy 300m², khu đất đó cũng phải thuê của làng bên từ hơn chục năm trước. 

"Vào mùa mưa bão, có khi nước dâng cao ngập hết các ngõ, hễ có cụ nào qua đời là con cháu khướt lắm. Người dân cứ thấy hở gò đất nào lên là đào đất chôn ở đó mà chẳng theo hàng lối. Có năm nước to, dân phải bơi thuyền cách bờ 500m mới đến được chỗ an táng. Các ngôi mộ nằm lộn xộn, mất mỹ quan, kéo theo là ô nhiễm môi trường. Nơi đặt mộ cải táng cũng vậy, dọc ven bờ đê ai muốn đặt mộ chỗ nào thì đào chỗ ấy. Mong ước có một nghĩa trang được quy hoạch rộng rãi là điều xa xỉ đối với Thổ Hà", ông Việt nói.

Đất chật người đông cũng là lý do để Thổ Hà có số lượng các “gia đình lớn” nhiều hơn so với nơi khác. Thống kê cho thấy có tới gần 80% số hộ trong thôn từ 3 đến 4 thế hệ sống chung, bên cạnh điều tích cực thì cũng nảy sinh rất nhiều bất cập. Nét đẹp, độc đáo và duyên dáng của làng Thổ Hà có rất nhiều nhưng dường như những nỗi khổ của người dân nơi làng cổ này cũng còn nhiều điều đáng để bàn.

Đông Khánh
.
.