Năm Sửu nói về các địa danh mang tên con Trâu

Thứ Tư, 28/01/2009, 08:00
Con trâu từ bao đời nay đã gắn bó mật thiết với con người, đặc biệt là người nông dân Việt Nam luôn xem “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Có phải vậy chăng mà khắp trên mọi miền của đất nước ta nhiều địa danh được mang tên con vật linh thiêng mà gần gũi  này.

Thắng cảnh Hồ Tây trong lòng thủ đô Hà Nội còn có một tên gọi gắn liền với những huyền thoại thú vị - hồ Trâu Vàng (Kim Ngưu hồ).

Chuyện kể rằng trên núi Tiên Du có trâu vàng, nhà sư lấy tích trượng yểm trán trâu, trâu bỏ chạy, húc đất thành thôn Húc, quần đất thành vũng Trâu Đằm (Văn Giang, Hưng Yên), chạy ngược lên thành sông Kim Ngưu. Cuối cùng Trâu Vàng ẩn xuống.

Lại có chuyện nhà sư Không Lộ (tức Lý Quốc Sư) dùng phép thuật thu hết đồng của phương Bắc, đúc thành quả chuông, chuông đánh lên ngân nga, trâu vàng phương Bắc ngỡ tiếng mẹ gọi bèn chạy sang ta, quần mãi đất sụp thành hồ, rồi ẩn xuống đó luôn.

Từ đó hồ thành tên hồ Trâu Vàng. Sư Không Lộ được đồng nhất với ông Khổng lồ của huyền thoại thợ đúc đồng Hà Nội và được tôn làm tổ sư nghề đúc đồng. Chùa Thần Quang bên bờ Hồ Tây trong vùng Ngũ Xã đúc đồng thờ vị tổ sư Không Lộ đó.

Hà Nội không chỉ có hồ Kim Ngưu (hồ Trâu Vàng) mà còn có con sông Kim Ngưu một thời đầy thơ mộng.  Kim Ngưu (chữ Hán Việt) có nghĩa là Trâu Vàng. Cũng theo truyện cổ dân gian, Trâu Vàng ở bên Tàu khi nghe thấy tiếng chuông đồng đen của thiền sư Nguyễn Minh Không ở nước Nam thì tưởng là tiếng trâu mẹ gọi liền chạy sang.

Đường nó chạy lún xuống thành sông Kim Ngưu. Đến phía tây thành Thăng Long thì tiếng chuông dứt, Trâu Vàng liền xới đất tung lên để tìm mẹ làm đất chỗ đó sụp xuống, thành hồ Kim Ngưu, tức Hồ Tây. Sông Kim Ngưu cổ, theo cố Giáo sư Trần Quốc Vượng, là một phân lưu của sông Tô Lịch.

Hà Nội - ngoài 2 địa danh mang tên con trâu ở trên, còn một địa danh khác cũng có cái tên gọi gắn với một giai thoại khá thú vị, đó là vùng đất Trâu Quỳ. Chuyện rằng, khoảng hơn 1.000 năm trước, vùng hoang vu này là nơi trú quân của 4 đạo quân nhà Lý.

Bốn vị tướng chỉ huy là các đại đệ tử của danh tướng Lý Thường Kiệt. Ỷ Lan cô gái hái dâu, được vua phong quý nhân và hạ sanh hoàng tử duy nhất nối ngôi. Ỷ Lan mang về kinh thành một con trâu mà bà thương yêu từ lúc còn bé. Không may, con trâu này lại phải đem đi cống Tàu. Ỷ Lan vương phi và con trâu chia tay tại vùng Gia Lâm. Con trâu sống lâu với bà nên có nhiều tình cảm, phút chia ly trâu quỳ xuống trước Ỷ Lan và rống lên tiếng não nùng.

Ỷ Lan mỗi chiều đều lên lầu cao trong kinh thành nhìn về Gia Lâm trầm ngâm hàng giờ nhớ đến con trâu ngày xưa. 40.000 quân cảm động tấm lòng của vương phi, một đêm đắp thành đồi hình con trâu đang quỳ, nay là huyện Trâu Quỳ, Gia Lâm. Nơi đây vẫn còn đền thờ Ỷ Lan Thái hậu và 4 danh tướng đất Việt.

Từ đất Hà thành về với quê hương miền Trung đầy nắng gió, hẳn chúng ta sẽ thật sự ngạc nhiên về một vẻ đẹp của một thắng cảnh thiên nhiên đầy thơ mộng, một địa chỉ du lịch đầy hấp dẫn của miền Trung thân thương: Điểm du lịch sinh thái hấp dẫn ở Ninh Thuận - suối Sừng Trâu.

Nằm cách thị xã Phan Rang, Tháp Chàm khoảng 40 km về hướng tây bắc, rừng núi quanh suối Sừng Trâu còn giữ được nét nguyên sinh, quanh năm rợp bóng cây xanh. Nước suối trong vắt len lỏi chảy róc rách qua những ghềnh đá tạo thành âm thanh thiên nhiên hoang dã, trữ tình.

Suối Sừng Trâu thuộc xã vùng cao Phước Chiến đang trở thành điểm du lịch sinh thái hấp dẫn thu hút du khách gần xa. Đến với suối Sừng Trâu (tiếng Raglai gọi là Cro-Tuki-Cobao) du khách có cảm giác được sống trong không gian xanh đẹp yên lành.

Con người như nhận được sự che chở bao bọc của rừng cây đại ngàn trùm bóng mát rượi xuống dòng suối. Nước suối Sừng Trâu chảy không bao giờ cạn là mạch nguồn chính làm nên công trình thủy lợi hồ Sông Trâu hùng vĩ phía hạ nguồn.

Một địa danh khác ở miền Trung cũng mang tên con trâu, đó là mấy hòn đảo nhỏ ngay trước cửa biển Đề Ghi của tỉnh Bình Định mà tục gọi là Hòn Trâu (trong bản đồ ghi là “Ile aux Buffles”).

Không biết đó có phải là nhóm đảo “Trâu nằm” mà vị tiền bối Phù Mỹ là ông Kiều đã đề vịnh chăng? Vịnh rằng: “Trâu ai cắc cớ chẳng ăn đồng/ Lúc ngúc ra nằm giữa biển Đông/ Sóng bạc lô nhô xao trước mặt/ Rong xanh tấp tểnh đóng bên hông/ Cán roi Nịnh Thích không sờn dạ/ Ngọc lửa Điền Đan chẳng cháy lòng/ Phải gặp ông Y mà hỏi thử: /Nội sằn lúc trước có cày không?”. 

Vùng đất Nam Bộ thành đồng cũng có một địa danh gắn liền với hình ảnh con trâu. Đó là Bến Nghé.

Bên bờ rạch Bến Nghé năm 1778, nhóm người Hoa từ Cù lao Phố và Mỹ Tho đã kéo về lập nên phố chợ buôn bán. Khu chợ đó phát triển thành Chợ Lớn ngày nay. Rạch Bến Nghé là bến cảng tiếp thuyền buôn từ các nơi đến giao thương với Sài Gòn - Chợ Lớn.

Năm 1819, một đoạn rạch Bến Nghé được đào sâu sửa dòng cho ngay thẳng lại và được đặt tên là “An Thông Hà” (tức là kinh Tàu Hủ). Dưới thời Pháp thuộc, năm 1905, thực dân Pháp cho đào con kinh Tẻ để chuyên chở lúa gạo đến bến cảng dễ dàng hơn.

Sau đó thực dân cho đào kinh Đôi song song với rạch Bến Nghé vì việc lưu thông đã tăng nhiều, con rạch cũ trở nên chật hẹp. Vâng, về địa danh này, trong dân gian đến nay vẫn lưu truyền câu ca dao: “Nguyên xưa rậm rạp còn rừng/ Trâu thường dằm tắm hoặc chừng nghé kêu/ Ngày nay phong cảnh tốt đều/ Tàu ghe lớn nhỏ đậu bèo hai bên/ Đò dọc rước mối xuống lên/ Hàng, người lên xuống  vang rên cả ngày/ Ghe bầu sắp lớp đậu ngay”...

Bài và ảnh: Nguyễn Thị Tho
.
.