Những phát minh khoa học của Trung Quốc thời cổ

Thứ Sáu, 02/10/2009, 15:15

Trồng cây thành hàng (Thế kỷ thứ 6 trước CN)

Kỹ thuật này cho phép các cây lương thực có thể được trồng nhanh hơn và cây lớn lên sẽ cứng cáp và khỏe mạnh hơn, nó hội tụ đủ 4 tiêu chí: trồng trọt, tưới tắm, nhổ cỏ và thu hoạch.

Đồng thời khi các đợt gió mậu dịch thổi vào khoảng giữa các hàng cây trồng này thì tốc độ hư hại hầu như không đáng kể. Kỹ thuật trồng trọt này mãi sau đó 2200 năm, người phương Tây mới lĩnh hội được.

Thiết bị gieo hạt (Nhà Hán: Năm 202 trước CN – năm 220)

Các nông dân Trung Quốc đã phát minh ra thiết bị gieo hạt vào đầu thế kỷ thứ 2 trước CN. Người châu Âu đầu tiên tên là Camillo Torello năm 1566 mới phát minh ra thiết bị gieo hạt nhưng nó vẫn không được đại đa số nông dân châu Âu áp dụng cho mãi đến giữa  năm 1800.

Cái cày sắt (Nhà Hán: Năm 202 trước CN – năm 220)

Một trong những thành tựu quan trọng từ thời cổ đại của nền nông nghiệp Trung Quốc chính là việc sử dụng cái cày bằng sắt. Mặc dù thiết bị này được phát minh lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 4 trước CN và được sử dụng bởi chính quyền trung ương, nhưng sau đó thiết bị này đã được đại đa số dân lao động thời nhà Hán ở Trung Quốc sử dụng. Kỹ thuật cày này không phải là phát minh của người châu Âu, đến thế kỷ XVII nó mới được phát minh và ứng dụng ở Anh và Hà Lan.

Máy khoan (Nhà Hán: Năm 202 trước CN – năm 220)

Vào thế kỷ thứ 1 trước CN, người Trung Quốc đã phát minh ra một kỹ thuật khoan sâu vào trong lòng đất. Một số lỗ khoan có thể đạt độ sâu tới 1,5 km. Kỹ thuật công nghiệp thời cổ đại này cho đến ngày nay đã được đại đa số kỹ sư địa chất ứng dụng. Những chiếc cần trục to nằm cách mặt đất khoảng 54 m bên trên lỗ khoan. Người ta cũng sử dụng kỹ thuật khoan này để làm cho bề mặt nước trong lòng đất bốc hơi tạo ra muối mỏ. Khí đốt thiên nhiên sẽ được “bơm” lên mặt đất thông qua các ống tre.

Một số tài liệu xưa còn cho biết rằng, thời xưa người Trung Hoa cổ đại đã sử dụng khí đốt thiên nhiên để thắp sáng. Tại Mỹ, kỹ thuật khoan đất lần đầu tiên được ghi nhận là vào năm 1820 ở bang Tây Virginia.

Bánh lái tàu thuỷ (Nhà Hán: Năm 202 trước CN – năm 220)

Kỹ thuật hàng hải của Trung Quốc ra đời sớm hơn so với kỹ thuật hàng hải của người phương Tây. Bánh lái tàu thủy với trục bằng sành sứ được người Trung Quốc phát minh vào thế kỷ thứ 1. 1700 năm sau đó tức là năm 1843, Anh là quốc gia đầu tiên ở phương Tây mới phát minh ra bánh lái tàu thủy.

Đeo ách cho ngựa (Năm 220 – Năm 581)

Vào cuối thế kỷ thứ 4 trước CN, theo sử sách Trung Quốc thì hình thức đeo ách cho ngựa đã xuất hiện trong thời đại nhà Chu. Vào cuối thời nhà Hán, ách cho ngựa được làm bằng đai mềm và được áp dụng trên toàn đất nước Trung Quốc. Vào thế kỷ thứ 5, vùng cổ ngựa (hình vẽ), xuất hiện hình thức đeo đai trên vai ngựa. Kỹ thuật đeo ách trên vai ngựa được người phương Tây ứng dụng vào năm 970 và chỉ trong vòng 200 năm sau đó nó lan rộng mạnh mẽ.

Đồ sứ (Nhà Tùy: Năm 581 – Năm 618)

Đồ sứ được phát minh vào thời đại nhà Tùy (nhưng có lẽ sớm hơn) và đến thời đại nhà Đường (618-906) thì sản phẩm đồ sứ đã đạt đến mức độ hoàn hảo. Vào thời nhà Tống (960-1279), nghệ thuật làm đồ sứ đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ.

Vào năm 1708, nhà vật lý người Đức tên là Tschirnhausen chính là người phát minh ra đồ sứ châu Âu, chấm dứt sự độc quyền về mặt hàng đồ sành sứ của Trung Quốc.

Giấy vệ sinh (Nhà Tuỳ: Năm 581 – Năm 618)

Tư liệu sớm nhất đã đề cập rằng việc sử dụng giấy vệ sinh đã được thực hiện vào thời nhà Tùy năm 589. Vào năm 851, một lữ hành người Arậåp cho biết rằng người Trung Quốc đã sử dụng giấy tại những nơi có nước để lau sạch chính cơ thể của họ.

In ấn (Nhà Tống: Năm 960 – Năm 1279)

Giấy đã được người Trung Quốc phát minh từ rất sớm, và nó là một trong những phát minh vô cùng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa. Công thức dùng để sản xuất giấy in ấn vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

Vào năm 868, quyển sách được in ấn đầu tiên ra đời, bằng cách chế tạo ra một thiết bị bản khắc gỗ làm ra giấy in. Khoảng 100 năm sau đó, một người tên là Bi Sheng (990-1051) là người truyền bá ra kỹ thuật in ấn hiện đại. Bằng cách sử dụng đất sét nặn thành các con chữ, sau đó nung qua lửa, ông đã tạo ra một loại con chữ có thể được tái sử dụng, hình thành nên kỹ thuật in ấn tiên tiến.

Đến năm 1450, kỹ thuật in ấn bằng chạy chữ đã ra đời mà điển hình là việc xuất hiện quyển Kinh Thánh Gutenberg, là quyển sách được in ấn bằng kỹ thuật chạy chữ đầu tiên ở châu Âu

Nguyễn Thanh Hải (theo Popular Science)
.
.