Tiếng lòng của bản “dạ cổ hoài lang”

Thứ Năm, 19/11/2015, 20:00
Bài "Dạ cổ hoài lang" của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu ra đời cách đây gần 100 năm, trong "nghịch cảnh chia ly" với tiếng lòng thổn thức. Lời ca vừa mang niềm riêng của tác giả, vừa chất chứa nỗi buồn chung của một thời đại vong quốc.

Buồn nhưng không bi lụy, nét nhạc lạc quan trỗi lên ở cuối bài khiến bài ca thấm đượm nỗi lòng của điệu buồn ai oán phương Nam, nhưng lại gợi mở một niềm tin về phận nước. Ở đấy, người nghe cảm nhận được tiếng lòng, thấy được mơ ước, khát khao của chính mình. Trải qua bao thế hệ, bao tầng lớp khắp vùng Nam Bộ, kẻ sĩ lẫn dân quê từng gõ nhịp hát "Dạ cổ hoài lang" để lắng nghe tiếng lòng thầm thì, buồn, vui và hy vọng…

Anh đi cưới vợ, em về với cha!

Vào một đêm tối trời cuối năm 1896, có 20 gia đình nông dân nghèo tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An, vì không chịu nổi cảnh hà khắc của bọn cường hào ác bá địa phương, họ lén xuống ghe bầu xuôi về miệt Bạc Liêu lập nghiệp. Trong số đó có gia đình ông Cao Văn Giỏi.

Cậu bé Cao Văn Lầu lúc ấy chưa tròn 5 tuổi (theo tài liệu ghi chép lại ông sinh năm 1892). Cha ông là người rất trọng đạo nho, ông từng nói với các con, rằng "không sợ nghèo, chỉ sợ không giữ được đạo". Nên khi đến vùng đất mới, ở tạm dưới mái chùa Vĩnh Phước An, ông liền gửi Cao Văn Lầu vào chùa học chữ nho.

Học được hai năm, phong trào chữ Quốc ngữ phát triển, Cao Văn Lầu thôi học chữ nho chuyển sang học chữ Quốc ngữ. Nhờ sáng dạ nên rất được thầy yêu, bạn mến. Việc học đang tấn tới nhưng đến lớp nhì (nay là lớp 4) thì ông đành chịu dở dang vì gia đình túng quẫn.

Cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu.

Bỏ học mà gia đình chẳng vơi đi chút khó khăn nào. Thấy vậy cha ông bèn gởi ông cho thầy giáo dạy đàn ở xóm Rạch Ông Bổn. Ông thầy đàn có tên Lê Tài Khị (1870 - 1948), tục gọi Nhạc Khị, nổi tiếng môn nhạc lễ và nhạc tài tử bởi ngón đàn điêu luyện. Nhờ siêng năng, sáng dạ nên Cao Văn Lầu mau chóng sử dụng thành thạo các nhạc cụ như đàn tranh, cò, kìm... và trở thành "tay đờn" chính trong ban nhạc của thầy Khị. Ban nhạc hoạt động theo hình thức nhạc lễ kết hợp với đờn ca tài tử.

Trong các cuộc lễ tế đêm khuya, thầy tụng xả hơi thì ban nhạc bày ra đờn tài tử. Một hình thức mới rất ăn khách mà bấy lâu thầy Khị chưa có dịp thực hiện. Nhờ có đờn ca tài tử mà khách đến dự đám ở lại suốt đêm. Danh tiếng Cao Văn Lầu mỗi lúc một vang xa. Soạn giả Mộng Vân, một người bạn đồng môn lập gánh hát mời ông về làm nhạc trưởng. Nhờ đó mà ông có tiền gửi về nuôi cha mẹ.

Theo đoàn hát được vài năm, lúc này Cao Văn Lầu đã ngoài 20 tuổi, cha mẹ bắt ông về cưới vợ. Vâng lệnh cha mẹ, ông lấy cô Trần Thị Tấn, một cô gái nết na, chất phác ở miệt biển Bạc Liêu.

Để có tiền cưới vợ, ông phải đi vay 80 đồng của bà Sư Chơn, lãi suất cắt cổ, mỗi ngày đóng 1,6 đồng. Sau đám cưới, hai vợ chồng phải đi vào rừng lượm củi, xúc tép dưới lung để đủ tiền trả lãi. Suốt ba năm trời quần quật kham khổ, người vợ gầy héo không thể sinh con.

Theo tục xưa: "Tam niên vô tử bất thành thê", cái lễ giáo phong kiến khắc nghiệt khiến cho nhiều đôi lứa chia lìa. Vợ chồng Cao Văn Lầu không nằm ngoài quan niệm ấy, khi mẹ ông bảo: "Con hãy liệu mà kiếm vợ khác để nối dõi tông đường. Đó là chữ hiếu của con mà mẹ cũng trọn đạo với nhà chồng".

Nghe qua nghiêm lệnh của mẹ như trời long đất lở. Hạnh phúc lứa đôi rồi đây sẽ sụp đổ. Thương cho người vợ hiền tần tảo, thủy chung nào hay tin dữ. Phận làm con phải lấy chữ hiếu làm trọng, ông hiểu nhưng chữ tình nào dám rẻ khinh.

Sau thời gian chờ đợi không thấy con trai thi hành nghiêm lệnh, bà nói cho con dâu biết rõ sự tình.

Như mọi ngày, vợ chồng Cao Văn Lầu vẫn vào rừng lượm củi, xúc tép để mưu sinh. Đến trưa, củi đầy ghe mà tép cũng nhiều. Hai vợ chồng dọn cơm lên mũi ghe, bất chợt vợ ông nghẹn ngào: "Má không cho mình ở với nhau nữa. Thôi anh cưới vợ khác, em về với mẹ cha em". Nói xong  vợ chồng gục đầu nức nở.

Chiều hôm ấy, vợ chồng đưa nhau ra bìa ruộng, ôm nhau nghẹn ngào trong im lặng, đến chạng vạng buộc lòng phải chia tay. Cao Văn Lầu thấy vợ chỉ ôm theo gói quần áo cũ, ông liền lấy khăn rằn quấn cổ đội lên đầu cho vợ ra đi. Tay lau nước mắt, chân bước thất thểu ra đồng như đi về nơi vô định.

Sau khi vợ đi rồi, ông như người mất hồn. Một hôm ông sang nhà nhạc phụ tìm vợ, mới biết vợ ông không trở về. Lòng càng hoang mang, tìm khắp nơi nhưng hình bóng người vợ hiền vẫn bặt tin.

Suốt một năm ròng chẳng biết vợ ở đâu, ông đành ôm sầu nuốt lệ. Cứ mỗi khi chiều xuống xách đờn ra bìa ruộng, nơi vợ chồng ly biệt. Nhìn ra đồng mà hình dung bóng vợ thất thểu giữa trời đêm. Ông gảy đờn theo tâm trạng của vợ lúc ấy, hết Xuân nữ đến Nam ai rồi Trường tương tư mà lòng chẳng vơi chút sầu thương.

Theo lời kể của ông Cao Kiến Thiết, con trai trưởng Cao Văn Lầu, ông nói có lần nghe cha mình tâm sự với bạn bè: "Lúc ấy tôi nghĩ, giờ này vợ mình ở đâu? Chắc chắn là vợ mình thương mình nhiều hơn mình thương vợ. Số phận vợ mình sao mà giống thân phận nàng Tô Huệ, quá thương chồng nên dệt bức Chức cẩm hồn văn dâng lên vua để tỏ lòng nhớ thương chồng. Hay nàng Tô Thị thương chồng đứng chờ cho đến khi hóa đá. Nên tôi viết bài Hoài lang".

Bài ca nhớ vợ!

Sau nhiều tháng làm bạn với cây đàn, chiều nào ông cũng ngồi bên bìa ruộng, hình dung bóng vợ gạt lệ ra đi. Từng bước biệt ly mà lòng đau quặn thắt. Ông vừa đờn vừa ca, mải mê trau chuốt bản đờn sao cho ngọt ngào, lột tả nỗi lòng khi "én nhạn lìa đôi". Đến khi nghe tiếng trống điểm canh vọng lại ông mới giật mình, đêm đã khuya.

Bất chợt ông nghĩ: tiếng trống đêm đánh lên trong khi mình đờn bài “Hoài lang”. À, phải rồi. Âu là mình lấy hai chữ Dạ cổ (tiếng trống đêm) thêm vào bản nhạc “Hoài lang” thành “Dạ cổ hoài lang” (Đêm nghe tiếng trống nhớ chồng) vậy là hay biết mấy. Thế là bản “Dạ cổ hoài lang” ra đời, với 20 câu làm não ruột người nghe.

Theo nghệ sĩ Lâm Tường Vân, bài “Dạ cổ hoài lang” là tiếng nấc nghẹn ngào của nhạc sĩ tài hoa Cao Văn Lầu. Là bản nhạc lòng không phải để phô trương. Chỉ để trao cho người tri kỷ, tri âm. Bản “Dạ cổ hoài lang” là một bản oán đặc biệt, buồn biệt ly và hy vọng đợi chờ.

Cũng theo nghệ sĩ Lâm Tường Vân, bản nhạc có lời ca thật xuất sắc, song tên bản nhạc còn hẹp nghĩa, sau đó được thầy tuồng Trần Xuân Thơ góp ý: Đêm nghe tiếng trống nhớ chồng, vậy ban ngày nghe tiếng trống không nhớ chồng sao? Cao Văn Lầu cảm nhận được ý hay nên đổi Dạ cổ hoài lang thành Vọng cổ hoài lang (Nghe tiếng trống từ xa vọng lại nhớ chồng).

Tuy nhiên, bởi cái tên gốc của nó, và cũng là nỗi tâm tình sâu lắng của tác giả, đã gợi đến tận tâm cốt người nghe rồi, nên khó mà khiến cho người ta thay đổi được nữa. Để rồi vào một đêm Rằm tháng Tám năm 1919, tại làng Vĩnh Hương, tổng Hòa Thạnh (nay là phường 2, thị xã Bạc Liêu), tỉnh Bạc Liêu, Cao Văn Lầu chính thức công bố bản nhạc bất hủ của mình. Người may mắn được ông dạy bản “Dạ cổ hoài lang” đầu tiên là nghệ sĩ Bảy Cao, kế đến là Lưu Hoài Nghĩa, rồi lần lượt đến các nghệ sĩ khác và người hâm mộ gần xa.

Sau khi bản “Dạ cổ hoài lang” ra đời, ông vẫn chưa vơi nỗi buồn thương. Không thể cam chịu cảnh chia ly, một mình khóc với bài ca. Ông quyết tâm đi tìm vợ! Ít lâu sau ông tìm gặp vợ ẩn sau mái chùa làm công quả. Cuộc trùng phùng như được tái sinh. Từ đó ông hay lui tới thăm vợ.

Một hôm vợ ông cho biết đã mang thai, đối với ông hạnh phúc như tràn ngập trên cõi đời. Tuy vậy ông cũng không khỏi lo âu, bởi nghiêm lệnh của mẹ ông vẫn còn đó. Nhưng ông vẫn nhất quyết về thưa với mẹ. Mẹ ông nghe qua thay vì giận dữ, lại như bắt được vàng, hối thúc con trai chuẩn bị ghe rước con dâu trở về.

"Thống trị" sân khấu cải lương

Từ khi bản “Dạ cổ hoài lang” ra đời, nhanh chóng đi sâu vào lòng người mộ điệu, trở thành bài ca chính thống, bài ca vua trên sân khấu cải lương Nam Bộ. Qua mỗi giai đoạn phát triển trở nên hay hơn và chuyển dần thành nhiều nhịp. Năm 1924, tăng lên 4 nhịp. Năm 1934 - 1944, tăng lên 8 nhịp. Năm 1945 - 1954, tăng lên 16 nhịp. Năm 1955 - 1964, tăng lên 32 nhịp và từ năm 1965 đến nay, tăng lên 64 nhịp.

Và cứ mỗi lần phát triển, bài “Dạ cổ hoài lang” không dừng lại ở nguyên bản như các bài nhạc cổ khác, mà dần biến đổi hình thức, làm thay đổi một phần bộ mặt cải lương. Rõ nét nhất là từ thập niên 60, soạn giả Viễn Châu, đã tạo nên mối lương duyên kỳ lạ, kết hợp tân nhạc vào vọng cổ cho ra đời bản tân cổ giao duyên, thu hút được khán thính giả tân và cổ nhạc.

Khu mộ của nhạc sĩ Cao Văn Lầu.

Điều này chỉ có ở vọng cổ, bởi lẽ tiếng nhạc du dương và lời ca bình dị hợp với tấm lòng người Nam Bộ. Lúc buồn vọng cổ giúp giãi bày tâm sự, vơi đi buồn tủi, lúc vui vọng cổ góp phần cho sự kiện thêm hân hoan. Cũng chính bản vọng cổ đã góp phần mang lại ánh hào quang cho nhiều lớp nghệ sĩ, danh ca, danh cầm, soạn giả cải lương... góp phần khơi nguồn dòng chảy cho lịch sử âm nhạc nước nhà.

Cố GS.TS. Trần Văn Khê, từng khẳng định: "Trong nền cổ nhạc Việt Nam, chưa có bài bản nào được như “Dạ cổ hoài lang” biến thành vọng cổ. Từ một sáng tác cá nhân đã trở thành sáng tác tập thể, sinh từ đầu thế kỷ, lớn lên sống mạnh khỏe, biến hóa thiên hình vạn trạng, và sẽ còn sống mãi trong lòng người Việt khắp năm châu bốn bể".

Dạ cổ hoài lang

1. Từ là từ phu tướng

2. Báu kiếm sắc phán lên đàng

3. Vào ra luống trông tin nhạn

4. Năm canh mơ màng

5. Em luống trông tin chàng

6. Ôi! Gan vàng thêm đau

7. Đường dầu xa ong bướm

8. Xin đó đừng phụ nghĩa tao khang

9. Còn đêm luống trông tin bạn

10. Ngày mỏi mòn như đá Vọng phu

11. Vọng phu vọng luống trông tin chàng

12. Lòng xin chớ phụ phàng

13. Chàng là chàng có hay

14. Đêm thiếp nằm luống những sầu tây

15. Biết bao thuở đó đây sum vầy

16. Duyên sắc cầm đừng lợt phai

17. Là nguyện - cho chàng

18. Hai chữ an - bình an

19. Trở lại - gia đàng

20. Cho én nhạn hiệp đôi.

* Theo cố GS.TS. Trần Văn Khê, lời ca của bài Dạ cổ hoài lang, nhịp đôi có nhiều dị bản. Thông thường, nghệ sĩ cải lương ca bài ca trên được coi đó là lời ca chính thức.

Kỳ Phương
.
.