Bí mật ngôi mộ cổ

Thứ Ba, 26/10/2010, 10:03
Người phụ nữ Việt Nam nào là tác giả chiếc bình được bảo hiểm cả triệu đôla đặt ở Bảo tàng Hoàng gia Thổ Nhĩ Kỳ? Người phụ nữ Việt Nam nào là sư tổ của một dòng gốm mà nói như bà Dessagodard - Giám đốc ngành nghệ thuật châu Á của Tập đoàn đấu giá Befterfields tại San Francisco Mỹ rằng: "Việc phát hiện dòng gốm Chu Đậu, đang trả lại cho Việt Nam một chương trong di sản nghệ thuật mà người ta từng nghĩ đã hoàn toàn biến mất"?

Kỳ I: Lá thư đến từ viễn xứ

Ngày 10/6/1980, một lá thư từ cán bộ ngoại giao người Nhật gửi cho ông Ngô Duy Đông - Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng (Hải Dương và Hưng Yên hiện tại) với nội dung:

"Kính gửi: Ông Ngô Duy Đông - Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng.

Thưa ông, tên tôi là: Makoto Anabuki, hồi trước là Bí thư thứ 2 của Đại sứ quán Nhật Bản, nay là cán bộ ngoại giao Nhật Bản tại Tokyo.

Trước hết tôi xin kính chúc tỉnh Hải Hưng đang phát triển mạnh mẽ trong ngành nông nghiệp, nhất là ao cá Bác Hồ, đem lại hiệu quả kinh tế cao và sản xuất rau cải được tăng lên.

Hôm nay tôi xin nhờ sự giúp đỡ của ông về việc sau đây:

Từ trước đến nay tôi nghiên cứu về văn hóa Việt Nam nói chung, đồ gốm cổ Việt Nam nói riêng. Gần đây, tôi mới biết là Viện Bảo tàng Thổ Nhĩ Kỳ vẫn bảo tồn 1 lọ hoa lam Việt Nam đã được sản xuất từ Việt Nam hồi thế kỷ XV, thế kỷ XVI.

Lọ ấy mang chữ Hán như sau: Thái hòa bát niên nam sách châu tượng nhân Bùi Thị Hý bút. Mười ba chữ Hán nói trên có nghĩa là: Năm 1450, một người thợ tên là bà (cô) Bùi Thị Hý ở Nam Sách châu vẽ hoa văn trên lọ.

Theo tôi biết thì thời Việt Nam thuộc nhà Minh chia nước Việt Nam thành 17 phủ (tổ chức hành chính), trong đó có Lạng Giang phủ. Lạng Giang phủ có 3 châu là Lạng Giang châu, Thượng Hồng châu và Nam Sách châu. Trong Nam Sách châu có 3 huyện là Thanh Lâm huyện, Chí Linh huyện và Bình Hà huyện. Có nghĩa là phạm vi của Nam Sách châu hồi đó là trung phần và bắc phần của tỉnh Hải Dương.

Dưới thời Vua Lê Lợi (Lê Thái Tổ) thì chia Việt Nam thành 5 đạo (Đông, Bắc, Tây, Nam, Hải Tây). Dưới thời Lê Nhân Tông thì tổ chức hành chính như thế nào, chúng tôi không có tư liệu để điều tra. Có lẽ không thay đổi tổ chức hành chính của hồi Lê Thái Tổ, vì lúc Vua Lê Nhân Tông tức vị mới được 2 tuổi.

Dưới thời Lê Thánh Tông thì đặt 12 đạo, trong đó có Nam Sách đạo và sau năm 1490, vua đó đã cải biến tổ chức hành chính và Nam Sách đạo đã trở thành Hải Dương xứ.

Vậy tôi muốn biết thời Lê Nhân Tông có Nam Sách châu không? Ở đâu? Bà (hay là cô) Bùi Thị Hý là người như thế nào? Học kỹ thuật vẽ trên gốm ở đâu? Hồi đó sản xuất gốm (lò gốm) đặt ở đâu?

Điều này rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử thủ công nghiệp và vai trò của đàn bà nói riêng.

Xin ông chỉ thị cho những chuyên gia nghiên cứu 13 chữ Hán nói trên và nếu có kết quả thì xin cho tôi biết qua Đại sứ quán Nhật Bản tại Hà Nội (hộp thư số 49 Hà Nội).

Hơn nữa nếu được thì xin giới thiệu cho tôi những chuyên gia khảo cổ học và mỹ thuật, nghệ thuật ở tỉnh Hải Hưng để trao đổi ý kiến với nhau.

Xin cảm ơn ông!

Nay kính

M.ANABUKI

Cán bộ Bộ Ngoại giao”.

Chiếc bình cực kỳ quý giá này được lưu giữ ở Bảo tàng Hoàng gia Topkapi, nguyên là một cung điện cực kỳ nguy nga lộng lẫy của Thổ Nhĩ Kỳ được xây dựng vào năm 1465 - 1487, một biểu tượng kỷ nguyên vàng nằm trong thành phố  Istanbul cổ kính nguy nga và tráng lệ của các hoàng đế Ottoman. Chiếc bình gốm hoa lam quý giá này được mua bảo hiểm với giá 1 triệu USD chứng tỏ nó không chỉ là bảo vật của Thổ Nhĩ Kỳ mà còn là của cả ngành gốm thế giới.

Chiếc bình triệu đô ở bảo tàng Thổ Nhĩ Kỳ.

Lúc ông Anabuki tham quan, nó vẫn được chú thích một cách rất hồn nhiên là gốm của Trung Quốc (TQ). Sự hồn nhiên đó cũng có lôgíc ở chỗ TQ là cái nôi của gốm sứ thế giới và những chữ in trên bình là chữ Hán. Tuy nhiên, ông Anabuki đã ngờ ngợ khi đọc 13 chữ Hán kia và quyết tâm tìm ra ngọn nguồn của Nam Sách châu là ở đâu? Bùi Thị Hý là ai? Cuối cùng, sau khi tra nát sử sách, ông mới biết Nam Sách châu ở Việt Nam. Vốn là một người có cảm tình với xứ sở hình chữ S, ngay từ hồi bao cấp phong tỏa gắt gao nhất, ông vẫn viết thư cho Bí thư Ngô Duy Đông với một hy vọng lấp ló cuối đường hầm.

Thông tin từ người Nhật như một tia sáng mạnh từ phương xa dội về khiến ông Bí thư nổi tiếng một thời Ngô Duy Đông, người nổi tiếng là thân dân và có tư duy cải cách nông nghiệp như Bí thư Kim Ngọc của Vĩnh Phú không thể ngồi yên.

Năm 1983, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Hải Hưng, đề án nghiên cứu nghề cổ truyền gốm sứ mà đặc biệt là gốm Chu Đậu được tiến hành. Qua sự nghiên cứu, điền dã, sưu tầm và nhiều lần khai quật của Bảo tàng Hải Dương cùng các cơ quan chức năng ở trong nước cũng như ở nước ngoài đã làm phát lộ một trung tâm gốm mỹ nghệ cao cấp với hàng ngàn mẫu mã gốm Chu Đậu như bát, đĩa, bình lọ cùng những dụng cụ sản xuất như bao nung, con kê, lò đốt...

Ngôi mộ cổ của bà Bùi Thị Hý nằm giữa một cái ao lớn.

Tựa như nàng công chúa ngủ trong rừng được đánh thức, những gì tinh túy nhất của mấy trăm năm trước từ trong lòng đất Chu Đậu bỗng một ngày tỉnh dậy, rủ rỉ kể chuyện xa xăm. Sự kiện này làm kinh ngạc các nhà sử học, khảo cổ học, học giả trong và ngoài nước và cũng làm sửng sốt ngay cả với người dân làng Chu Đậu.

Thì ra gốm Chu Đậu đã lưu lạc đến 32 nước trên thế giới - đến nay còn nhiều vạn cổ vật quý giá đang được lưu giữ ở khắp các châu lục, có mặt ở 46 bảo tàng danh tiếng trên thế giới từ châu Á sang châu Âu. Hàng loạt sự kiện tiếp theo của dòng gốm này làm bàng hoàng cả giới sưu tầm, nghiên cứu gốm sứ toàn cầu. Gốm cổ Chu Đậu được trục vớt từ những con tàu đắm ở dưới đáy biển Việt Nam (Cù Lao Chàm, Hòn Dầm, Hòn Cau, Bình Thuận và Cà Mau).

Đặc biệt là con tàu đắm ở Cù Lao Chàm - Đà Nẵng. Với 18 nước hợp tác trục vớt trong 2 năm (1998 - 2000) đã trục vớt được từ trong con tàu đắm này hơn 40 vạn cổ vật gốm sứ Chu Đậu từ thế kỷ XV. Trong hơn 40 vạn cổ vật đó có 27 vạn cổ vật còn lành, ngoài phần lưu lại cho Việt Nam 10% thì 24 vạn cổ vật mà tập đoàn trục vớt được đã mang về San Francisco và Los Angeles ở Mỹ để bán đấu giá. Theo số liệu thống kê của nhà bán đấu giá ở Mỹ, cổ vật giá thấp nhất cũng không dưới 1.000 USD, có chiếc bình gốm tỳ bà cổ Chu Đậu cao 24cm được các nhà sưu tầm kiên quyết tranh mua, đẩy giá lên tới 512.000USD.

Chiếc đầu rồng trấn yểm của bà Bùi Thị Hý.

Có thể nói con tàu đắm này là một kho báu, quảng bá cho tinh hoa văn hóa xứ Đông nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung ra toàn thế giới. Nói như bà Dessa Godard - Giám đốc ngành nghệ thuật châu Á của Tập đoàn đấu giá Befterfields tại San Francisco rằng: "Việc phát hiện dòng gốm Chu Đậu, đang trả lại cho Việt Nam một chương trong di sản nghệ thuật mà người ta từng nghĩ đã hoàn toàn biến mất".

Mấy chục năm với những bằng chứng được coi là chấn động, đảo lộn mọi suy nghĩ về gốm sứ của thế giới, buộc nhiều nhà nghiên cứu gốm sứ nhất loạt phải chắp tay thốt lên rằng: "Nhất sứ Giang Tây (TQ), nhất gốm Chu Đậu". Nhất - ở đây là hàng đầu, là đỉnh cao của thế giới. Một sự so sánh quả thực trước đó kể cả những người bạo gan nhất của ngành gốm sứ Việt Nam cũng chẳng bao giờ dám mơ giữa ban ngày. Tuy nhiên, mấy chục năm sau bức thư của ngài Anabuki, việc tìm ra chủ nhân của chiếc bình hoa lam mà nói rộng là một trong những sư tổ của nghề gốm Chu Đậu vẫn không khác gì “mò kim đáy bể”.

Mười ba chữ Hán trên chiếc bình hoa lam cứ như một mật mã khó hiểu, đánh đố giới khoa học dù ngay trong lá thư này, ông Anabuki đã dịch rằng, đấy là một phụ nữ, tên là Bùi Thị Hý tạo tác. Ông đề nghị các nhà khảo cổ học và nghiên cứu nghệ thuật cho biết tiểu sử của bà Bùi Thị Hý, người học nghề làm đồ gốm ở đâu mà sáng tạo nên tác phẩm xuất sắc như vậy. Ông cũng không quên nhắc rằng đây là vấn đề quan trọng về thủ công nghiệp và thương nghiệp của Việt Nam ở thế kỷ XV, đặc biệt là vai trò của người phụ nữ. Tuy nhiên các nhà khoa học ở ta lại nghĩ theo một xu hướng khác hẳn.

Phó Giáo sư - Tiến sĩ Trịnh Sinh, Viện khảo cổ học: "Gốm Chu Đậu có vẻ đẹp của Chu Đậu, sứ Giang Tây (TQ) có vẻ đẹp của Giang Tây. Việc chiếc bình gốm hoa lam được trưng bày trang trọng ở Bảo tàng hoàng gia Thổ Nhĩ Kỳ và hàng loạt đồ Chu Đậu ở các bảo tàng danh tiếng trên thế giới cùng với sự phát hiện các con tàu đắm chứa đầy gốm Chu Đậu ở dọc dài bờ biển Việt Nam được giới khảo cổ trong và ngoài nước đánh giá rất cao.

Nó chứng tỏ sự giao thương của đồ gốm Việt Nam ra thế giới đã có từ rất xưa. Dân ta hồi đó đã giỏi đi biển, đã khẳng định chủ quyền biển Đông, biết dựa vào các dòng hải lưu, các cơn gió mùa để đưa hàng hóa đi khắp thế giới, nhất là trục Đông - Tây. Tự hào biết mấy!".

Theo ông Tăng Bá Hoành, Chủ tịch Hội Sử học Hải Dương, trước khi nhận được lá thư của ông Anabuki, các nhà sử học trong tỉnh đã sưu tầm được nhiều đồ gốm hoa lam và men đa màu lưu ở kho bảo tàng tỉnh từ những năm 60 của thế kỷ XX. Hiện vật tương tự cũng có ở một số bảo tàng trong nước, trong đó không ít tác phẩm của Đặng Huyền Thông, ghi rõ quê quán, ngày tháng năm sản xuất, nơi đặt hàng, người đặt hàng, hầu hết tập trung vào đời Mạc Mậu Hợp (1563 - 1593) nhưng trong nhiều năm vẫn chưa tìm ra nơi sản xuất.

Nhận được thông tin từ Anabuki do Tỉnh ủy chuyển đến, việc nghiên cứu mới thực sự tích cực, nhất là từ khi Ban Thông sử Hải Hưng thực hiện chuyên đề Nghề cổ truyền. Đây là cơ hội để tìm di chỉ sản xuất đồ gốm cổ. Sau 10 năm điền dã, nghiên cứu, kết quả là không chỉ tìm ra trung tâm gốm mỹ nghệ Chu Đậu mà tới 14 trung tâm khác trên địa bàn Hải Hưng khi đó... Tuy nhiên, để giải mã 13 chữ Hán trên bình gốm hoa lam nói trên, phải mất đằng đẵng ngót 30 năm...

Nam Sách châu do nhà Minh đặt liệu còn tồn tại đến niên hiệu Thái Hòa (1443 - 1453), khi mà sau kháng chiến chống Minh, Lê Lợi đổi hai phủ Lạng Giang và Tân An, nguyên là Lộ Hồng và Nam Sách thời Trần thành Đông đạo? “Đại Nam nhất thống chí” cho biết, đến đời Diên Ninh (1454-1459) mới đổi thành Nam Sách Thượng Hạ Lộ. Vậy thời Thái Hòa vẫn tồn tại Nam Sách châu. Như vậy 9 chữ đầu đã được giải mã và khẳng định tác giả viết đúng niên hiệu và địa danh đương thời. Đặc biệt hóc búa là 4 chữ cuối: "Bùi Thị Hý bút", nhiều học giả hiểu rất khác nhau. Đó quả thực là một cái bẫy. Ngôn ngữ vốn nhiều nghĩa trong những ngữ cảnh khác nhau, nhất là chữ Hán nên nhiều học giả nổi danh vẫn bị sa bẫy như thường.

"Bùi Thị Hý bút" phần lớn học giả ở Hà Nội, dịch là: Ông họ Bùi, vẽ chơi. Hồi mồ ma một giáo sư sử học họ Trần nổi tiếng, vị giáo sư này đã rất hùng hồn rằng phải đọc là Bùi Thị (tức là ông họ Bùi), phẩy, hý bút (tức là vẽ chơi), như thế mới tường minh!

Những cổ vật liên quan đến bà Bùi Thị Hý.

Lại có nhiều học giả lập luận cũng rất thuận tai rằng thời phong kiến nhất là ở thế kỷ XV nạn trọng nam khinh nữ vô cùng khắc nghiệt nên phụ nữ không có tên tục mà chỉ có tên hiệu, cũng chẳng ai là phụ nữ mà dám "ký tên" lưu danh mình trên những sản phẩm buôn bán cả.

Lắm luận văn tiến sĩ khảo cổ học, nhiều sách chuyên khảo về gốm sứ, đến nay vẫn để nguyên như thế. Ngược lại, các nhà sử học địa phương mà tiêu biểu là ông Tăng Bá Hoành, Chủ tịch Hội Sử học Hải Dương hiểu khác. Cách hiểu khá tương đồng với ông cán bộ ngoại giao Nhật, đã dịch là: Bùi Thị Hý vẽ.

Cơ sở của nó theo ông Hoành trong lịch sử dù hiếm, vẫn tìm được không ít phụ nữ được ghi tên trên đồ gốm, với tư cách là tác giả. Để gây chú ý về vấn đề này, cánh ông Hoành giới thiệu lại sự kiện trên tại tạp chí Khoa học và ứng dụng của Liên hiệp Hội khoa học Hải Dương vào tháng 5/2005 những mong cầu một chiếc chìa khóa hé mở cánh cửa bí mật

Xứ Đoài
.
.