"Cô Tiên" giữa đời thường

Thứ Năm, 23/08/2007, 14:45
Không lấy chồng, không sinh con, 7 năm qua chị Nguyễn Thị Tuyết Lan - 42 tuổi và Trần Thị Hiền - 43 tuổi ở xóm Mới thuộc tổ 3, phường Trà Bá, thành phố Pleiku (Gia Lai), đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình để chăm sóc những đứa trẻ bất hạnh.

Đó là những đứa trẻ bị tật nguyền do di chứng của hậu quả chất độc da cam  và bệnh tật hiểm nghèo bị gia đinh bỏ rơi, nhưng bằng tấm lòng của những cô tiên  các chị đã làm nên chuyện cổ tích giữa đời thường.

Cao cả hơn tình mẫu tử

Chúng tôi đến thăm hai người đàn bà không lấy chồng, không có con, tự nguyện làm mẹ 7 đứa trẻ khuyết tật vào một ngày cuối tuần. Trời Gia Lai mưa nhẹ, lành lạnh, trong căn nhà nho nhỏ, 7 đứa trẻ  đang được hai “bà mẹ” cho ăn.

Đứa đầu to, ngồi trên xe lăn, hàm răng nghiến lại, tay chân co quắp, lâu lâu lại đá đấm về phía những ai đứng ngồi đối diện; đứa thì mắt mở trừng trừng nhìn người khác cứ như là “kẻ thù”; đứa thì miệng cười liên tục, nụ cười vô cảm trên khuôn mặt dại khờ; đứa thì mềm nhũn nằm bất động trên giường; lại có đứa thấy chúng tôi, bỏ chạy vào góc nhà ngồi co ro như sợ sệt điều gì lớn lắm

Tất cả đều không biết nói, ốm đau, bệnh tật, đói khát... các cháu đều gào thét, đập đầu xuống nền nhà, vào tường hay cào cấu người khác. Trong 7 cháu, có 4 cháu bị di chứng của chất độc da cam, 3 cháu bị bệnh bại não. 7 phần cơm, 7 cái muỗng (thìa) nhỏ, hai người mẹ cứ thế chuyền tay nhau cho 7 đứa con cùng ăn... Hơn một giờ sau, bữa cơm của các cháu mới xong, hai chị mới có chút thời gian ngồi cùng chúng tôi  trò chuyện.

Bắt đầu từ năm 1999, khi hai chị Nguyễn Thị Tuyết Lan và Trần Thị Hiền từ Lâm Đồng về lập nghiệp ở xóm Mới thuộc tổ 3, phường Trà Bá, thành phố Pleiku (Gia Lai). Lúc đó, cuộc sống của người dân ở đây còn vất vả nhiều. Với một mảnh vườn 7 sào, một căn nhà nho nhỏ, hằng ngày hai chị tích cực chăm bẵm vườn cây để duy trì cuộc sống (hai chị là con cô con bác trong gia đình).

Một hôm, tình cờ người  bạn chị Hiền từ tỉnh Kon Tum đến thăm và kể chuyện về cháu Y Liu, là con gái đầu lòng của hai vợ chồng ADuối, dân tộc Sê Đăng ở thôn 5, xã Ngọc Wang (Đắc Hà, Kon Tum) bị bệnh bại não, nằm liệt giường, mắt mở to, ai đến thăm cháu cũng cười, nụ cười “vô hồn”.

Sinh cháu bị khuyết tật, ADuối sợ bị Yàng phạt lây nên đã bỏ vợ một mình chèo chống, sợ hãi nuôi đứa con tật nguyền cùng với bố mẹ bị bệnh thần kinh đi lấy vợ khác.

Nếu không có ai nhận nuôi kịp thời thì làng “bắt” phải giết chết đứa nhỏ tật nguyền tội nghiệp đó. Vì theo tục lệ của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số  ở Tây Nguyên thì  những đứa trẻ sinh ra không bình thường, tật nguyền là do bị Yàng phạt.

Làng muốn làm ăn phát đạt, lúa cho nhiều hạt, bắp cho nhiều trái. Con heo, con gà đẻ nhiều, con bò béo mập... thì nhà ai có những đứa con như thế phải giết chết từ lúc nhỏ, và điều đáng nói nữa là khi bị giết, đứa trẻ không may mắn đó cũng không được chôn chung nghĩa địa của làng, buộc phải làm “con ma” lẻ...

Thương quá, hai chị quyết không để cái hủ tục giết chết một đứa trẻ kém may mắn, hai chị đã đồng ý nhận Y Liu về nuôi. Ngày đó, Y Liu một tuổi mà không khác gì lúc mới sinh, chỉ nằm quẫy đạp, đập đầu xuống nền nhà.

Chị Hiền kể: Lần đầu tiên thấy cháu, chúng tôi xót xa, xúc động không nói nên lời. Để cứu được cháu và có điều kiện chăm sóc, hai chị quyết định đầu tư cho chị Hiền đi học lớp nghiệp vụ ở TP HCM về vật lý trị liệu cho trẻ bị di chứng chất độc và bệnh bại não, khiếm thính.

Ra trường, bao nhiêu kiến thức học được, cùng với tình thương yêu, hằng ngày chị Hiền tập trung điều trị phục hồi chức năng, dần dần Y Liu ngồi được, hai chị mừng quá, dành dụm được ít tiền hai chị liền mua cho cháu một chiếc xe lăn... Giờ Y Liu đã lớn, cháu biết ngồi lắc lư theo tiếng nhạc mà hai chị vẫn hằng ngày mở ra từ chiếc đài để thay lời hát ru.

Năm 2001, hai chị có thêm một "đứa con" nữa, chị Phương ở cùng tổ có đứa con bị bệnh tim, gia đình khó khăn tìm đến nhờ hai chị nuôi giúp. Năm 2002, "đàn con" của hai chị đông hơn khi có thêm cháu Lành ở Nam Yang (Mang Yang) 7 tuổi bị mù tìm đến, hai chị nhận làm con.

Năm 2003, tiếng lành đồn xa, có người từ Nhơn Hòa (Chư Sê) tìm về nhờ  hai chị nuôi giúp cháu Nam, Nam bị bệnh bại não mắt  lúc nào cũng mở tròn, ai đến cũng nhìn chăm chăm, theo tiếng động nhưng thật ra cháu không thấy gì chỉ nằm co giật.

Rồi cháu Thảo 12 tuổi, gia đình ở thành phố Pleiku bị di chứng chất độc hóa học, bại liệt, đầu nhỏ xíu, toàn thân mềm nhũn, chỉ có đôi mắt là cử động được. Cháu Y Liễu, người dân tộc Sê Đăng, Kon Tum, hoàn cảnh cũng tương tự như cháu Y Liu, nếu hai chị không nhanh chân tìm đến xin về làm con nuôi, thì giờ đây chắc cháu cũng đã làm con “ma lẻ” giữa núi đồi hoang sơ của Tây Nguyên.

Năm 2004, cháu Chân, ở tổ 4, phường Trà Bá, bị não úng thủy và di chứng chất độc hỏng một bên mắt, mắt kia bị mờ... và còn rất nhiều cháu. Khi biết tin hai người mẹ tận tình nuôi dưỡng các cháu có hoàn cảnh đặc biệt với một tình yêu thương cao cả, nhiều người tìm đến nhờ nuôi con, nhưng lực bất tòng tâm, không có khả năng về kinh tế.

Thu nhập trong mảnh vườn gói ghém lắm cũng chỉ đủ nuôi được 7 cháu. Mặc dù còn những khó khăn vậy, nhưng nhờ sự tận tụy chăm sóc, yêu thương bọn trẻ như những đứa con do chính mình sinh ra vì thế mà các cháu dù bệnh tật, nhưng rất quyến luyến, thương yêu hai chị.

Hết lòng vì những đứa trẻ tật nguyền

Trao đổi với chúng tôi, chị Lan mong đến ngày cây lá trong vườn cho trái, cho hoa để kinh tế gia đình đỡ lên. Lúc đó, chị sẽ nhận thêm các cháu về nuôi. Vì có thêm một cháu là thêm việc, từ việc chăm lo cho các cháu từ giấc ngủ, đến bữa ăn, giặt giũ, dọn dẹp, vệ sinh cho các cháu. Mà muốn nhận nuôi nhiều cháu phải có thêm người. Nhờ thì khó, mà thuê thì phải trả tiền công... hai chị đành ngậm ngùi nhìn những đứa trẻ bị tật nguyền mà bố mẹ mang đến gửi không được nhận mà lòng quặn đau.

Hai chị tâm sự: “Nuôi dưỡng các cháu, chúng tôi thấy cuộc đời mình có ý nghĩa hơn. Ngày cũng như đêm, chúng tôi dành hết những tình cảm với bản năng làm mẹ của người phụ nữ chăm sóc các cháu. Những lúc bình thường chỉ tập trung chăm sóc các cháu, buồn vui theo tiếng khóc, nụ cười và tâm trạng thể lực của các cháu. Tội nhất là lúc đêm khuya, trời mưa, giá rét... các cháu bị bệnh, chị em chúng tôi phải cõng từng cháu đến bệnh viện thành phố hoặc bệnh viện tỉnh khám, điều trị, có lúc các cháu bệnh nặng phải ở lại điều trị 6, 7 ngày.

Chị Hiền đang chăm sóc các cháu

Nhiều người nhìn chúng tôi ái ngại, thương xót, có người nói thẳng: Sao hai chị không lấy chồng, sinh con, mà nuôi nấng cho có cha, có mẹ cho hạnh phúc, nếu cùng lắm thì xin một hai đứa con bình thường về nuôi, sau này nó lớn có điều kiện phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, sức yếu...

Nhưng có lẽ đau khổ nhất là nhiều người không thông cảm, họ nhìn chúng tôi với khía cạnh của những người “không bình thường”. Cuộc đời mà... “bận lòng làm chi”. Đến bây giờ các cháu đã lớn, đỡ bệnh, kinh tế gia đình cũng tàm tạm, hai chị em chúng tôi đã phần nào thực hiện được ý nguyện của mình, đó là vừa cứu đời và vừa làm mẹ nuôi dưỡng các cháu, chúng tôi cảm thấy rất hạnh phúc...”.

Khi được hỏi, sao hai chị không lập gia đình? Cả hai nhìn nhau cười vui và nói với chúng tôi không chút đắn đo: “Lúc đầu chúng tôi cũng muốn lấy chồng để yên bề gia thất, hạnh phúc như cha mẹ đã mong ước... Tiếc thay, cũng đã ba - bốn người đàn ông đến “tìm hiểu” thời gian đầu họ cũng thương chúng tôi, muốn cùng nhau nên vợ nên chồng

Nhưng sau khi trực tiếp đến nhà họ thấy cuộc sống của hai chị em và những đứa trẻ tật nguyền “không bình thường” mà chị em chúng tôi hàng ngày dành tình thương yêu chăm sóc, nuôi dưỡng; họ không chịu nổi đã lặng lẽ ra đi, không bao giờ trở lại...

Thú thật, nhiều lúc nghĩ lại chuyện “duyên nợ - vợ chồng” cũng cảm thấy buồn, nhưng chị em chúng tôi được bù lại là sau khi nhận các cháu về nuôi, làm mẹ với lũ nhỏ tật nguyền đã là quá hạnh phúc; nếu lấy chồng, rồi lại có con thì nó ảnh hưởng tới  cuộc sống của các cháu ở đây, tội cho các cháu, chúng nó đã thiệt thòi lắm rồi so với các em nhỏ khác trong cộng đồng xã hội. Thế là chị em chúng tôi quyết định ở vậy để dành phần còn lại của cuộc đời cho các cháu sinh ra không được may mắn”.

Chia tay hai chị, hai người mẹ cùng 7 cháu nhỏ tật nguyền đang nằm trên võng lắc lư theo tiếng nhạc. Hai chị nói vui với chúng tôi: “Nay mai có điều kiện tốt hơn, chị em chúng tôi sẽ nhận các cháu về nuôi thêm cho vui cửa, vui nhà và cũng nhờ các anh tìm giúp cho chị em tôi người đàn ông nào đó biết thông cảm, biết yêu thương cuộc sống để nương tựa và cũng để vui hạnh phúc gia đình...". Sau nụ cười, chúng tôi thấy hai chị đưa tay gạt nước mắt, đó là nước mắt của những nỗi buồn sâu lắng và cũng là nước mắt của niềm vui thiện nhân

Lê Quang
.
.