Dung Quất - Mùa hè đỏ lửa

Thứ Hai, 06/08/2007, 17:01
Ngay hôm tôi đến, Tổng Công ty Sông Hồng vừa hoàn thành một công việc đáng được coi là "kỳ tích" - đổ 1.600m3 bêtông mặt sàn trong 17 giờ. Vậy mà vẫn hâm hao những tin rằng Nhà máy Lọc dầu số 1 Dung Quất sẽ đưa vào vận hành chậm 4 tháng, thậm chí 8 tháng…

Tôi đến Nhà máy Lọc dầu số 1 Dung Quất vào giữa những ngày nắng nóng dữ dội. Mặt trời lúc nào cũng như  chiếc chảo lửa khổng lồ treo lơ lửng. Lửa trên trời dội xuống. Hơi nước hầm hập bốc lên từ mặt biển chết lặng, hơi nóng từ hàng chục ngàn tấn sắt thép tỏa ra ngùn ngụt... Nhưng trên toàn công trường, gần 1 vạn công nhân của các tổng công ty danh tiếng như Lilama, Cienco1, Sông Hồng, Lũng Lô, Vinaconex... đang lao động cật lực, có lúc làm cả ba ca...

Ngay hôm tôi đến, Tổng Công ty Sông Hồng vừa hoàn thành một công việc đáng được coi là "kỳ tích" - đổ 1.600m3 bêtông mặt sàn trong 17 giờ.

Vậy mà vẫn hâm hao những  tin rằng nhà máy sẽ đưa vào vận hành chậm 4 tháng, thậm chí 8 tháng... Rồi lại vẫn  có tiếng xì xèo rằng xây dựng nhà máy ở Dung Quất  là “phi kinh tế”, là “duy ý chí”...?

Nhưng ông Trương Văn Tuyến, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và là Trưởng ban quản lý Dự án cười rất tươi và nói rất tự tin với  PV ANTG: “Sẽ cho ra sản phẩm theo đúng tiến độ vào tháng 2/2009. Nhưng...”.

Vậy là “nhưng” cái gì nhỉ? Và tại sao nhà máy lại được đặt ở Dung Quất? Tại sao khởi công xây dựng nhà máy từ năm 1998 mà cho đến nay vẫn... chưa xong.

Lịch sử một nhà máy

Cho đến bây giờ, mặc dù đã về nghỉ hưu được nhiều năm, nhưng ông Đỗ Quang Toàn, nguyên là Vụ trưởng Vụ Dầu khí của Văn phòng Chính phủ và trước đó từng là Chánh văn phòng Tổng cục Dầu khí, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế - Bộ Công nghiệp, là Giám đốc Công ty Chế biến các sản phẩm dầu... vẫn nhớ như in hình ảnh Thủ tướng Võ Văn Kiệt vào thị sát khu vực vịnh Dung Quất vào ngày 19/9/1994.

Trên đường đi ra Dung Quất, một sự ưu tư, buồn bã  luôn hiện trên nét mặt của Thủ tướng bởi ông nhìn thấy những khu dân cư nghèo đến thê thảm, những cồn cát cằn cỗi và ánh mắt trông chờ tưởng như đến tuyệt vọng của những người dân đứng hai bên đường. Còn các cán bộ chủ chốt của tỉnh Quảng Ngãi và có cả cán bộ của Phú Yên, Bình Định, Quảng Nam - Đà Nẵng... đi theo đoàn cũng  phập phồng, hồi hộp “nín thở” theo dõi từng “nhất cử nhất động” của Thủ tướng.

Công nhân Nhà máy Dung Quất vào ca.

Đi thị sát xong, khi quay về, Thủ tướng cũng chưa bộc lộ rõ quan điểm là sẽ chọn Dung Quất hay Long Sơn (Bà Rịa- Vũng Tàu), hay Nghi Sơn (Thanh Hóa)... Thế rồi sau chuyến đi của Thủ tướng, lại liên tiếp có các đoàn của Tổng cục Dầu khí, của Bộ Công nghiệp, của Văn phòng Chính phủ vào Dung Quất...

Và đến ngày 9/11/1994, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 658/QĐ-TTg về địa điểm xây dựng Nhà máy Lọc dầu số 1 và quy hoạch Khu kinh tế trọng điểm miền Trung, trong đó chính thức chọn Dung Quất - Quảng Ngãi làm địa điểm xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam... Đã có không ít ý kiến bày tỏ sự không đồng tình từ nhiều nhà khoa học, thậm chí từ một số đồng chí lãnh đạo các ngành, các cấp... Những ý kiến đó không phải là không có lý, nếu xét về khía cạnh kinh tế đơn thuần.

Ông Toàn kể lại rằng: “Tin vui về đến Quảng Ngãi vào đúng lúc đang họp Hội đồng Nhân dân tỉnh. Khi đồng chí Bí thư Tỉnh ủy thông báo tin này, cả hội trường đứng dậy hoan hô và cũng có không ít đồng chí lặng lẽ lau nước mắt. Tiếp đó, lãnh đạo tỉnh quyết định “ăn mừng” bằng cách đi mua ít chai bia Quảng Ngãi về uống...  mà không có “mồi”. Tỉnh Quảng Ngãi khi đó nghèo lắm”.

Ông kể cho tôi nghe quá trình đi tìm kiếm các địa điểm xây dựng nhà máy và những bước đi “chập choạng” ban đầu. Nhưng để có được tài liệu chính xác về lịch sử của nhà máy, tôi  vẫn phải vào Dung Quất và gặp ông Trương Văn Tuyến.

Về ông Trưởng ban Quản lý Dự án Nhà máy Lọc dầu số 1 Dung Quất, có nhiều giai thoại. Nhưng cho đến nay, “dân” Bộ Xây dựng cũng như “dân” dầu khí đều phải công nhận là Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Hồng Quân có con mắt tinh đời khi quyết ông Tuyến về làm Trưởng ban.

Số là vào cuối năm 2003, “đùng” một cái, Bộ trưởng ra quyết định điều ông Tuyến về làm Trưởng ban Quản lý dự án, khi đó, ông đang là Giám đốc Công ty Lắp máy 481. Nghe tin phải về “dầu khí”, ông Tuyến ngỡ ngàng bởi vì công việc sắp tới là trái ngành, trái nghề và ông có hiểu gì về dầu khí đâu. Ông xin gặp Bộ trưởng, trình bày mọi lý do và xin cho làm công việc cũ vài năm rồi về hưu sớm...

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Quân cho hay là cơ quan tổ chức đã chọn được 6 ứng cử viên, nhưng bên dầu khí, chẳng hiểu sao lại cứ “mê” Trương Văn Tuyến. Cũng có thể là họ đã biết tố chất của ông qua những công trình lớn của đất nước như Thủy điện Sông Đà, Nhiệt điện Phả Lại, Supe phốt phát Lâm Thao, Điện Phú Mỹ... Xin lui không nổi thì phải nhận nhiệm vụ. Mà khi đã nhận thì phải lao vào làm.

Thời điểm ông Tuyến về Dung Quất cũng là năm “đại hạn” của ngành Dầu khí: Liên doanh Việt - Nga  xây dựng nhà máy giải tán; các tập đoàn lớn của Pháp, Đài Loan... cũng “bỏ của chạy lấy... tiền” từ lâu; đã thế lại hàng loạt vụ tham nhũng, bê bối xảy ra ở nhiều công ty và trên lãnh đạo Tổng Công ty. Một bầu không khí ảm đạm, lo lắng, chán nản bao trùm lên toàn ngành Dầu khí. Chính vì vậy không ít người thực lòng khuyên ông Tuyến không nên về cái “chảo lửa” Dung Quất.

Vì tự cho là mình không am hiểu về dầu khí, cho nên ông Tuyến dành khá nhiều thời gian để tìm hiểu quá trình tìm kiếm địa điểm và xây dựng nhà máy lọc dầu. Chính vì vậy mà chẳng cần sổ sách, ông cũng kể vanh vách.

Ngày 3/9/1975, Tổng cục Dầu khí được thành lập và nhiệm vụ đầu tiên là tiếp tục thăm dò tìm kiếm dầu khí trên vùng biển thềm lục địa theo những tài liệu địa chất của chính quyền Sài Gòn trước đây. Cuối thập niên 70 thế kỷ XX, sau khi có những hợp tác quan trọng với Liên Xô về lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí tại thềm lục địa phía Nam, Chính phủ đã chủ trương hình thành một chiến lược xây dựng ngành công nghiệp lọc - hóa dầu để phục vụ công cuộc phát triển đất nước.

Việc lập Luận chứng nghiên cứu khả thi Khu Liên hợp lọc - hóa dầu được Liên Xô thực hiện vào năm 1978. Đến đầu những năm 80, Liên Xô và Việt Nam đã thống nhất địa điểm xây dựng Khu Liên hợp lọc - hóa dầu tại thành Tuy Hạ, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Khu Liên hợp lọc - hóa dầu dự kiến được đầu tư xây dựng trong 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 sẽ xây dựng một nhà máy lọc dầu với một dây chuyền chế biến dầu thô công suất 3 triệu tấn/năm.--PageBreak--

Giai đoạn 2 dự kiến đầu tư thêm một dây chuyền chế biến dầu thô để nâng công suất lọc dầu lên 6 triệu tấn/năm và hình thành một khu hóa dầu sản xuất chất dẻo, sợi tổng hợp và một dây chuyền sản xuất phân đạm (urê). Tổng vốn đầu tư cho cả 2 giai đoạn vào khoảng 3 tỉ rúp chuyển nhượng.

Đầu những năm 90, việc giải phóng một phần của 3.000 ha mặt bằng và khảo sát địa chất sơ bộ, chuẩn bị các điều kiện phụ trợ để xây dựng Khu Liên hợp đã được phía Việt Nam tiến hành. Lúc này, Liên Xô cũng đã thực hiện xong thiết kế cơ sở và chuẩn bị các điều kiện đầu tư cho dự án. Tuy nhiên,  do Liên Xô  sụp đổ  nên dự án khu Liên hợp lọc - hóa dầu tại thành Tuy Hạ bị hủy bỏ.

Năm 1992, Chính phủ chủ trương mời một số đối tác nước ngoài liên doanh đầu tư xây dựng Nhà máy lọc dầu, trong đó có Liên doanh PetroVietnam/Total/CPC/CIDC do Total (Pháp) đứng đầu. CPC (Chinese Petroleum Corp) và CIDC (Chinese Investment Development Corp) là hai công ty của Đài Loan.

Trong quá trình chuẩn bị dự án, đã có nhiều ý kiến khác nhau của các bên về địa điểm đặt nhà máy, cụ thể Total đề xuất địa điểm xây dựng Nhà máy lọc dầu tại Long Sơn, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Tháng 2-1994, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam làm việc với các đối tác nước ngoài gồm Total (Pháp), CPC và CIDC (Đài Loan) lập Luận chứng nghiên cứu khả thi chi tiết Nhà máy Lọc dầu số 1 với vị trí dự kiến đặt tại Đầm Môn, vịnh Văn Phong, tỉnh Khánh Hòa.

Trong quá trình nghiên cứu tiếp theo, do vẫn có một số quan điểm khác nhau về điểm đặt nhà máy nên Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Xây dựng chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan trong đó có Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam (nay là Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam) tiếp tục nghiên cứu và báo cáo đầy đủ về các yếu tố địa hình địa chất, tính toán toàn diện các mặt lợi ích kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của các địa điểm dự kiến xây dựng Nhà máy Lọc dầu số 1 tại: Nghi Sơn (Thanh Hóa), Hòn La (Quảng Bình), Dung Quất (Quảng Ngãi), Văn Phong (Khánh Hòa), Long Sơn (Vũng Tàu).

Trong năm địa điểm này, thuận lợi nhất là Long Sơn, rồi đến Nghi Sơn, rồi Văn Phong... Nhưng Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nhìn thấy tiềm năng du lịch của Văn Phong về sau này nên dứt khoát gạt ra khỏi danh sách.

Nhưng vì sao lại “quyết" Dung Quất, việc đó chúng tôi sẽ nói đến ở phần sau.

Việc lập Luận chứng nghiên cứu khả thi chi tiết của dự án được Tổ hợp gồm PetroVietnam, Total, CPC và CIDC tiếp tục thực hiện. Tuy nhiên đến tháng 9/1995, Total xin rút khỏi dự án do không đạt được thỏa thuận về địa điểm đặt nhà máy. Total chỉ muốn đặt nhà máy ở Long Sơn để cho được thuận lợi mọi bề.

Để tiếp tục triển khai dự án, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đã khẩn trương soạn thảo và trình Chính phủ phê duyệt hướng dẫn đầu bài Nhà máy Lọc dầu số 1 và mời các đối tác khác thay thế Total tham gia dự án.

Ngày 15/2/1996, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam và các đối tác nước ngoài là LG (Hàn Quốc), Stone &Webster (Mỹ), Petronas (Malaysia), Conoco (Mỹ), CPC và CIDC (Đài Loan) đã ký tắt thỏa thuận lập Luận chứng khả thi chi tiết Nhà máy Lọc dầu số 1. Ngày 5/3/1996, lễ ký chính thức thỏa thuận lập Luận chứng khả thi chi tiết Nhà máy Lọc dầu số 1 được tiến hành.

Sau khi ký thỏa thuận lập Luận chứng nghiên cứu khả thi chi tiết dự án, tổ hợp bao gồm PetroVietnam và các đối tác nước ngoài đã khẩn trương triển khai công việc. Trong thời gian từ 15/2/1996 đến 15/8/1996, Luận chứng nghiên cứu khả thi chi tiết đã được thực hiện với sự tham gia của các đối tác và của các tư vấn kỹ thuật - Foster Wheeler, tư vấn cảng - Fluor Daniel, tư vấn tài chính - Barclays và tư vấn luật - While & Case.

Theo hướng dẫn đầu bài được Chính phủ phê duyệt, Nhà máy Lọc dầu số 1 sẽ được xây dựng tại Dung Quất thuộc địa bàn 2 xã Bình Trị và Bình Thuận, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Với hình thức đầu tư liên doanh, nhà máy sẽ chế biến một hỗn hợp 6,5 triệu tấn dầu ngọt và dầu chua/năm, trong đó lượng dầu ngọt Việt Nam là chủ yếu, để cho ra sản phẩm chính là nhiên liệu phục vụ giao thông và công nghiệp.

Luận chứng nghiên cứu khả thi đã đưa ra 50 phương án đầu tư để xem xét, với chỉ số thu hồi nội tại IRR (Internal Rate of Return) của các phương án từ 8 đến 11% và tổng vốn đầu tư khoảng 1,7-1,8 tỉ USD. Luận chứng nghiên cứu chi tiết đã được các bên hoàn thành đúng tiến độ và trình Chính phủ Việt Nam phê duyệt vào tháng 11/1996.

Tuy nhiên, kết quả của Luận chứng nghiên cứu khả thi  chi tiết cho thấy dự án  - với các thông số theo hướng dẫn của  đầu bài - đòi hỏi vốn đầu tư cao, không thỏa mãn hiệu quả kinh tế và tiềm ẩn khó khăn trong việc thu xếp tài chính.

Sau khi các đối tác nước ngoài rút khỏi dự án, theo chỉ đạo của Chính phủ, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam tiếp tục lập Luận chứng nghiên cứu khả thi chi tiết Dự án Nhà máy Lọc dầu số 1 theo phương án Việt Nam tự đầu tư.

Được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, để đảm bảo khách quan và độ tin cậy của Luận chứng nghiên cứu khả thi, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đã thuê Công ty Foster Wheeler Energy Limited của Anh và UOP (Universal Oil Products) của Hoa Kỳ làm tư vấn trong quá trình xây dựng Luận chứng.

Trên cơ sở xem xét Luận chứng nghiên cứu khả thi và các ý kiến của các công ty tư vấn, ngày 10/7/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 514/QĐ-TTg phê duyệt dự án Nhà máy Lọc dầu số 1 Dung Quất theo hình thức Việt Nam tự đầu tư với công suất chế biến 6,5 triệu tấn dầu thô/năm, tổng vốn đầu tư 1,5 tỉ USD, bao gồm cả chi phí tài chính.

Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam được Chính phủ giao làm chủ đầu tư của dự án.

Ngày 8/1/1998, Lễ động thổ xây dựng Nhà máy Lọc dầu số 1 đã được tiến hành tại xã Bình Trị, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi

(Còn nữa)

Ảnh trong bài: Thanh Hải
.
.