Hai giả thuyết về vùng đất bí ẩn ở Quảng Bình

Thứ Năm, 06/02/2014, 20:45

Từ xưa đến nay, đã có không biết bao nhiêu trang sách viết về vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của vùng đất sinh thành nên những trang tuyệt sắc giai nhân. Người ta nói nhiều về vẻ đẹp dịu dàng, cách ăn mặc, trang điểm nền nã và đặc biệt là lối ứng xử lịch lãm, tinh tế của con gái Hà thành. Con gái Huế với tà áo dài tha thướt và giọng nói mang âm điệu dịu dàng, nhỏ nhẹ và duyên dáng của đất Cố đô.

Gắn với câu thành ngữ “Chè Thái, gái Tuyên”, con gái xứ Tuyên Quang nổi tiếng với vóc dáng cân đối, khỏe khoắn, vẻ đẹp đằm thắm, thanh thoát hút hồn người…

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ kể cùng bạn đọc về một miền gái đẹp khác mà đa số con gái được sinh ra và lớn lên ở đất này đều có chung một đặc điểm là dáng cao, mắt đen tròn, làn da trắng nõn nà, môi đỏ, mái tóc đen dài óng mượt… Miền gái đẹp ấy nằm trong dải đất của hai huyện vùng cao Tuyên Hóa và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình.

Nếu ai đó đã một lần đến với vùng đất Tuyên Hóa, Minh Hóa sẽ không khỏi ngạc nhiên khi nhìn thấy con gái ở đây đa số có làn da trắng hồng, mái tóc đen dài óng ả, nụ cười chúm chím dưới làn môi mọng đỏ đến nao lòng. Nhiều người đã giải thích về hiện tượng lạ lùng đến thú vị này bằng nhiều cách khác nhau nhưng trong số đó có hai câu chuyện được người đời truyền tụng nhiều nhất. Đó là câu chuyện về hậu duệ của những cung tần, mỹ nữ theo Vua Hàm Nghi đến và ở lại khai canh, lập ấp ở chốn Sơn phòng từ lúc nhà vua hạ chiếu Cần Vương đánh Pháp.

Và một câu chuyện khác mang tính huyền thoại về một loài thần dược như là quà tặng của vùng đất này có tên gọi là cây cỏ máu.

Cây cỏ máu được người dân cất giữ. Ảnh: T.Q.N..

Để bạn đọc có thể hiểu một cách tường tận những chi tiết xung quanh hai câu chuyện kể này và vùng đất được mệnh danh là "miền gái đẹp" ở Tuyên Hóa và Minh Hóa. Chúng tôi xin được nhắc lại những biến cố dẫn đến việc Vua Hàm Nghi phải xuất bôn hạ chiếu Cần Vương: Trước hết là câu chuyện liên quan đến việc Kinh đô Huế bị thất thủ và Vua Hàm Nghi đã phải rời xa chốn cung vàng điện ngọc để theo Tôn Thất Thuyết hành quân đến chốn Sơn phòng hạ chiếu Cần Vương đánh Pháp.

Sách "Gần 400 năm vua chúa triều Nguyễn" của tác giả Lưỡng Kim Thành do NXB Thuận Hóa ấn hành năm 2012 đã ghi lại sự kiện này như sau: Năm 1885, Thống tướng De Courcy được Chính phủ Pháp cử sang Việt Nam để phụ lực vào việc đặt nền bảo hộ. Tướng De Courcy muốn vào yết kiến Vua Hàm Nghi nhưng lại đòi hỏi là toàn bộ binh lính của mình khoảng 500 người phải vào cung bằng cửa chính. Triều đình Huế điều đình rằng chỉ có hàng tướng quân mới được đi vào cửa chính, còn binh lính thì phải đi bằng hai cửa hai bên cho đúng với nghi thức của triều đình, nhưng De Courcy nhất định không chịu. Vì lẽ đó mà mâu thuẫn giữa Pháp với triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ đã lên đến tột đỉnh.

Giai đoạn này, người Pháp đã đưa Lemaire là Tổng lãnh sự Pháp tại Thượng Hải đến Huế để nhậm chức Khâm sứ Trung Kỳ. Đến Huế, Lemaire đã tổ chức rất nhiều cuộc tập trận, nhằm kích động, gây rối kinh thành. Bên cạnh đó, việc quân Pháp bắt bớ, giam cầm quan lại của Nam triều cũng thường xuyên xảy ra. De Courcy và Lemaire còn có ý định bắt giam luôn cả quan đại thần Tôn Thất Thuyết, vì chúng biết rất rõ rằng ông Thuyết là người cầm đầu phe chủ chiến trong triều đình nước Việt.

Bản thân Tôn Thất Thuyết cũng nhận rõ được mối hiểm họa sắp giáng xuống và biết trước sau gì cũng phải chống lại nên đã ngầm xây dựng căn cứ quân sự ở vùng Tân Sở (Quảng Trị).

Ngày 4/7/1885, Toàn quyền Pháp cho mời các quan phụ chính của Nam triều sang Tòa khâm sứ để thảo luận việc vào yết kiến Vua Hàm Nghi, với dự định nhân đó sẽ bắt giữ luôn Tôn Thất Thuyết. Ông Thuyết dự báo được âm mưu của người Pháp nên đã cáo bệnh xin ở nhà. De Courcy nghe tin ông Thuyết cáo bệnh đã rất tức tối tuyên bố với Nam triều rằng, nếu vắng mặt Tôn Thất Thuyết thì Tòa khâm sứ sẽ không tiếp Nam triều.

Ngay ngày hôm đó, quan phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường cùng với cơ mật viện mang theo lễ vật của Thái hậu Từ Dũ đến Tòa khâm sứ nhưng Tòa khâm đã cự tuyệt. Ông Tường đã trao lá thư tay cáo bệnh của ông Thuyết cho De Courcy. Đọc thư xong, De Courcy giận dữ ra mặt nói rằng, nếu không có mặt ông Thuyết thì Toàn quyền Pháp sẽ không trình quốc thư, đồng thời nhắn lại rằng "nếu ông Thuyết ốm không đi được thì phải võng ông Thuyết sang".

Ông Tường không biết phải làm cách nào trong tình cảnh ấy nên đành quay về tâu lại với Vua Hàm Nghi. Ở vào thế tiến thoái lưỡng nan, Vua Hàm Nghi buộc phải hạ lệnh cho Tôn Thất Thuyết ngày hôm sau phải cùng với các quan thượng thư của triều đình đi sang Tòa khâm sứ theo như yêu cầu của người Pháp.

Tôn Thất Thuyết bị dồn đến thế đường cùng, không còn sự lựa chọn nào khác là chủ động tấn công vào sào huyệt của quân Pháp. Đúng 1 giờ ngày 23/5 năm Ất Dậu (5/7/1885), quân của Tôn Thất Thuyết được chia làm hai cánh chính. Một cánh đánh vào Tòa khâm sứ, do Tôn Thất Lệ chỉ huy; cánh thứ hai do Trần Xuân Soạn chỉ huy đánh thẳng vào đồn Mang Cá. Bị tấn công bất ngờ, quân Pháp ở hai mục tiêu này chống cự trong hỗn loạn.

Đến khoảng 5 giờ sáng, quân Pháp bừng tỉnh lại, chỉnh đốn vũ khí và đội hình rồi bắt đầu phản công. Quân của ông Thuyết đã chiến đấu vô cùng anh dũng, tuy nhiên do vũ khí quá thô sơ nên chỉ sau đó vài giờ đồng hồ đã hoàn toàn tan tác. Quân dân đều cùng nhau tháo chạy ra phía các cổng thành, một số trúng đạn, một số do giẫm đạp lên nhau mà chết rất nhiều. Từ đó, ngày 23/5 âm lịch hằng năm trở thành một dấu mốc lịch sử đau thương của người dân xứ Huế. Hằng năm, cứ đến ngày này, mỗi gia đình ở Huế đều có một mâm cơm để cúng giữa trời, gọi là cúng âm hồn nhân ngày Kinh đô thất thủ…--PageBreak--

Khi quân Pháp đã làm chủ xứ Huế, thấy rõ nguy cơ nên Tôn Thất Thuyết đã chạy vào cung rước Vua Hàm Nghi rời bỏ kinh đô lên căn cứ Tân Sở để tiếp tục kháng chiến. Hàng nghìn người dắt díu nhau qua cầu Lợi Tế để đi về phía Bắc. Có rất nhiều cung tần, mỹ nữ và những người thân thích với hoàng gia ra đi trong biến cố này, trong số đó có cả bà Từ Dũ (mẹ Vua Tự Đức), bà Trang Ý (vợ chính Vua Tự Đức) và bà Học phi Nguyễn Thị Hương (mẹ nuôi của Vua Kiến Phúc)…

Đoàn quân kháng chiến do Tôn Thất Thuyết cầm đầu đã hộ giá Vua Hàm Nghi đi suốt một dặm dài từ Kinh đô Huế ra đến căn cứ Tân Sở ở Quảng Trị, rồi từ đây tiếp tục di chuyển vì tránh sự truy đuổi của quân Pháp đến vùng rừng núi thuộc các huyện Tuyên Hóa, Minh Hóa của tỉnh Quảng Bình và cuối cùng là ở vùng Hương Khê (Hà Tĩnh).

Suốt dọc đường đi, có rất nhiều người gốc gác hoàng gia, trâm anh thế phiệt đã bị rơi rớt lại, đặc biệt là sau khi Vua Hàm Nghi bị bắt và phong trào Cần Vương tan rã. Hầu hết những người đi theo hầu hạ vua, trong số đó có nhiều cung tần, mỹ nữ đã ở lại vùng rừng núi kháng chiến này để sinh cơ lập nghiệp. Có nhiều người do lo sợ sau này bị liên lụy nên đã thay tên đổi họ để hòa nhập với người địa phương, rồi qua ngày tháng, họ lấy chồng, lấy vợ sinh con đẻ cái và xem mảnh đất mới ấy là quê hương bản quán của mình… Đó cũng chính là lý do mà sau này người ta đã giải thích vì sao ở chốn rừng xanh núi thẳm lại sinh ra nhiều giai nhân tuyệt sắc, vì sao ở nơi xa xôi ấy lại sinh ra nhiều con gái đẹp đến lạ lùng như vậy…

Giải thích về miền gái đẹp ở vùng đất Tuyên Hóa, Minh Hóa (Quảng Bình), người ta còn có những câu chuyện ly kỳ mang tính huyền thoại khác. Một trong những câu chuyện đó là huyền thoại về cây cỏ máu mọc ở tít tận rừng sâu sau những dãy núi đá vôi hùng vĩ. Những nguồn tài liệu cũ ghi lại rằng: Gọi là cây cỏ máu, nhưng thực ra đó là loài cây dây leo rất lớn và chỉ có trong vùng rừng già Minh Hóa.

Ngoài vùng này ra không đâu có loại cây này. Cây cỏ máu thường leo vắt vẻo trên những cây cổ thụ trong rừng sâu như cây chạc chìu. Thân cây cỏ máu thường có đường kính bằng bắp tay người lớn, đôi khi bằng cả bắp chân. Cỏ máu có hai loại gỗ trắng và gỗ đỏ. Khi dùng làm thuốc, loại gỗ trắng không tốt bằng loại gỗ đỏ. Vốn xưa kia, người Chứt, người Nguồn (người Kinh sống ở miền núi lâu năm) ở Minh Hóa sống trong rừng già, khi đói thì họ ăn bồi với ốc đực, khát thì uống nước suối, nước khe, đau ốm thì hái lá rừng, đào rễ cây rừng  làm thuốc. Ấy vậy mà hầu hết họ rất mạnh khỏe và sống trường thọ hơn so với người miền xuôi.

Ngày nay, có nhiều người tìm cây cỏ máu về bán cho thương lái. Ảnh: N.M.S..

Trước đây, người Chứt, người Nguồn xem cây cỏ máu là cây thuốc bí truyền, họ chỉ hái về đủ dùng cho người trong gia đình và đương nhiên là không bao giờ tiết lộ cho người ngoài biết. Thế nhưng giờ đây, vì nhiều lý do mà chủ yếu là lý do kinh tế, nên họ đã tìm hái cây cỏ máu mang bán trong các phiên chợ ở thị trấn Quy Đạt.

Sau khi hái cỏ máu về, họ thường cắt khúc dài cỡ 40 đến 50 phân rồi đem bỏ vào những hố đất, sau đó đốt như đốt than cho đến khi vỏ cây cháy sém, nhựa cây đủ độ chín thì lấy ra treo lên giàn bếp để dùng dần. Đây là bí quyết xử lý để tạo nên phương thuốc cỏ máu. Bởi vì cỏ máu tươi hái về dùng ngay sẽ không có tác dụng gì, ngược lại, nếu cây cỏ máu tươi bị đốt cháy quá lửa cũng sẽ làm mất hết dược chất của nó…

Những người dân sinh sống lâu năm ở miền gái Tuyên Hóa, Minh Hóa kể rằng: Cây cỏ máu có tác dụng chính là bổ máu, an thần, ăn ngon miệng, ngủ ngon giấc. Người Chứt, người Nguồn ở Minh Hóa thường sử dụng cây cỏ máu để nấu nước cho sản phụ uống sau khi sinh.

Một vị cao niên ở thị trấn Quy Đạt cho biết: Thường sau khi sinh, trong vòng ba ngày, sản phụ sẽ được cho uống một loại nước được sắc từ rễ cây cỏ Tan (là một loại cây rừng nhỏ như cây Lấu mọc trong rừng già Minh Hóa) để xổ cho sạch khí thừa huyết hư ra ngoài. Đến ngày thứ tư sau sinh, sản phụ sẽ bắt đầu được cho uống nước sắc từ cây cỏ máu để bồi bổ khí huyết. Phụ nữ sau khi sinh uống nước cỏ máu sẽ rất nhanh hồi sức, khí huyết nhanh chóng được bồi bổ đủ đầy. Làn da lại trắng hồng như tuyết, đôi môi lại đỏ như son, suối tóc lại đen nhánh óng mượt, chẳng khác gì lúc còn con gái đương thì…

Cách  sắc cây cỏ máu để dùng cũng khá đơn giản. Lấy khúc cỏ máu treo trên giàn bếp xuống. Rửa sạch bồ hóng rồi dùng rựa đẽo nhỏ thành dăm bào. Đem bỏ đủ lượng cỏ máu vừa đẽo ra vào nồi sắc lên, hằng ngày uống thay cho nước chè, nước vối. Nước cỏ máu sau khi sắc thường có màu đỏ tươi như máu. Khi uống có vị chát, ngọt nhẹ. Uống xong có vị ngọt hậu rất dễ chịu. Có một điều lạ là nước sắc từ cỏ máu không bao giờ bị thiu, dù có để lâu đến mấy ngày…

Không chỉ sản phụ mới dùng được loại thuốc này mà ngay cả người bình thường, đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ đều dùng được…

Một chị bán hàng ở chợ phiên Quy Đạt nói: Bây giờ, ngày càng có nhiều người ở thành phố tìm đến đây để mua cây cỏ máu mang về sắc cho người thân uống mỗi khi sinh nở. Người dân trong vùng này có con cái đi làm ăn, dựng nghiệp ở nơi xa như Sài Gòn, Hà Nội, thậm chí ở nước ngoài cũng tìm mua cây cỏ máu để gửi cho con cái họ dùng khi cần thiết…

Phan Bùi Bảo Thy
.
.