Huyền thoại trên cao nguyên đá: Sống chết với Đồng Văn

Thứ Bảy, 26/02/2011, 14:35
Ký hòa ước với Pháp, nhận sắc phong của triều đình nhà Nguyễn, Vương Chính Đức đã gần như độc bá quyền lực khắp châu Đồng Văn. Khi xây dinh thự họ Vương tại Sà Phìn, ông đã tỏ rõ ý chí quần hiền tụ sĩ của mình bằng cách cho ngoã lên trước cổng vào dinh một đôi câu đối: "Gia quý hiền nhân xuất nhập/ Môn phong lưu khách vãng lai" (Nhà quý hiền, người vào ra/ Cửa phong lưu, khách lui tới). Dưới chân bờ rào đá trước dinh là một khoảng sân rất rộng, đủ chỗ để buộc hàng trăm cỗ ngựa.

Mọi hoạt động xử lý công việc cai trị Đồng Văn, đón tiếp khách khứa bốn phương lẫn sinh hoạt của "Vua Mèo" Vương Chính Đức và ba bà vợ đều diễn ra trong dinh thự nằm lẫn giữa rừng sa mộc này. Tiếp khách hoặc xử án, Vương Chính Đức đều ngồi tại dãy nhà ngang cuối cùng, nơi cao nhất, an toàn nhất trong khu dinh nếu có tấn công từ bên ngoài vào. "Vua Mèo" ngồi ghế kê trên thềm cao, tội nhân bị buộc quỳ trên sàn ở gian trước, cách chỗ "Vua" ngồi một khoảng sân, khoảng cách đủ làm nhụt chí kẻ có tội đang bị trói nghiến, nếu kẻ đó có ý đồ manh động.

Hai hầm tầng trệt ở hai bên tả hữu chỗ "Vua Mèo" ngồi chính là nơi đặt hai kho chứa vàng bạc và thuốc phiện. Khách quen, có hiểu biết một chút sẽ không quá khó để nhận ra dụng ý của Vương Chính Đức. Mọi sắp xếp, xây dựng, trang trí, bố trí trong dinh thự đều chứng tỏ chủ nhân của nó mang một ám thị sâu sắc  về ý nghĩa biểu trưng và sự cân đối, đối xứng. Dưới tán những gốc sa mộc vững chãi kia, quyền sinh sát một mình ông thâu tóm.

Sà Phìn là trung tâm quyền lực của người Mông Đồng Văn, nhưng ngoại trừ dinh thự nhà Vương, ở xung quanh thời đó vẫn không hề có bản làng của thứ dân nào cả. Một thứ quyền uy tối thượng và biệt lập. Thủ phủ thật sự của Đồng Văn thực tế đóng ở Phố Bảng, cách Sà Phìn 13km đường đèo. Trước khi Hòa ước Pháp - Mèo (được ký tháng 10/1913), đường vào Phố Bảng rất hẹp, chỉ đủ chỗ cho đoàn ngựa thồ xếp hàng một lên đèo xuống dốc. Hòa ước ký xong, người Mông nhất mực từ chối đi phu, đi làm xâu, người Pháp phải thuê người Hán ở khu Tổng Cản, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc đối diện với Phố Bảng sang bạt núi, mở rộng đường. Sau đó, họ lại thuê người Khách (người Hẹ ở Quảng Đông, Trung Quốc) qua đẽo đá xây nên đồn Phó Bảng, thiết lập sự chiếm đóng và cai quản.

Phố Bảng là cửa ngõ của mọi giao thương trên miền Đồng Văn. Nằm ở độ cao lưng chừng trời, lại toàn đá và đá, đất canh tác ở Đồng Văn rất hiếm. Trồng ngô, đậu hay rau cải trong những kẹt đất hiếm hoi giữa các hốc đá, năng suất cực thấp, hầu như không đủ để nuôi sống người dân bản địa. Ngược lại, thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết ở đây lại hết sức thích hợp với cây anh túc. Mỗi ha trồng anh túc thu được từ 1,5-2kg thuốc phiện mỗi vụ, trồng vài ba hécta, tiền bán thuốc phiện đủ để cho một gia đình người Mông sống cả năm. Thời gian còn lại tha hồ cho họ múa khèn, uống rượu, đám trai tráng tha hồ tập cưỡi ngựa, phóng lao và bày trò chơi chiến trận.

Đường về xuôi khó khăn, thuốc phiện Đồng Văn thường được bán sang Trung Quốc đổi thành ngựa to, lừa tốt, vải lanh từ Vân Nam, muối, gạo đường... từ Quảng Tây và quay trở lại Đồng Văn, tất tật đều qua ngả Phố Bảng. Để khóa chặt cửa ngõ mậu dịch tự do và dòng chảy thuốc phiện sang Trung Quốc, Pháp phải cố sống cố chết giành cho được quyền quản lý Phố Bảng và mở đường về miền hạ Hà Giang, từ đó về xuôi nhằm tận thu thuốc phiện tiêu thụ nội địa.

Ý đồ của Pháp, thương nhân Hoa Hán phát hiện ra ngay. Làm đường, xây đồn Phố Bảng xong, cả người Hán Vân Nam lẫn người Hẹ Quảng Đông đều không chịu về nước mà tìm cách ở lại Phố Bảng chiếm đất lập phố, buôn bán tấp nập (cho đến tận ngày nay). Không lâu sau, Phố Bảng đã khá sầm uất, buôn bán nhộn nhịp, được mệnh danh là Hồng Công thứ hai trên cao nguyên đá.

Tất nhiên Vương Chính Đức cũng không khoanh tay ngồi nhìn nguồn lợi của mình bị người Pháp và người Hoa Hán chia nhau xâu xé. Triệt để khai thác lợi thế đã được Hòa ước Pháp - Mèo công nhận, ông vẫn giành cho mình trọn quyền đại lý thuốc phiện. Mỗi lạng “vàng đen” bán ra khỏi đất Đồng Văn đều có phần nhất định của ông. Lợi dụng con đường về xuôi vừa mở, ông cho mua ngay một căn nhà ở phố Hàng Đường, Hà Nội đặt đại lý, đưa thuốc phiện Đồng Văn về xuôi phân phối ra khắp nơi đồng thời mua gạo, muối, dầu hỏa, đá lửa, vải vóc và nhiều loại nhu yếu phẩm khác chở ngược lên Đồng Văn, buôn bán kiếm lời cả hai chiều. Toàn bộ công cuộc kinh bang này, ông giao cho Vương Chí Sình (Vương Chí Thành) trông coi.

Phế tích đồn binh Pháp do người Hẹ (Trung Quốc) xây dựng tại phố Bảng.

Vương Chí Sình sinh năm 1885, là con trai thứ hai, người giàu chí hướng nhất  trong số 4 con trai của "Vua Mèo". Ông  được ăn học khá đến nơi  đến chốn, thông thạo cả Hoa văn và Pháp văn. Theo lệnh thân phụ, ông đã lấy vợ và sinh sống tại Phố Bảng chứ không đưa gia đình về sống trong dinh Sà Phìn. Cơ ngơi  cũ  của Vương Chí Sình hiện nay được sử dụng làm nhà văn hóa Phố Bảng. Tại đó, Vương Chí Sình đã mở đại  lý trông coi việc buôn bán của gia tộc, sau đó mua thêm các chức "trứ do", "chếnh tra", “trại tra" (trưởng bản, trưởng xóm, trưởng thôn) cho mình và bộ tướng  để củng cố thêm quyền lực. Do công việc buôn bán, Vương Chí Sình quen biết rất nhiều sĩ quan, quan lại cả Pháp lẫn Nam Triều ở Hà Nội. Viên quan ba chỉ huy đồn Phố Bảng cũng  là "chiến hữu" của ông.

Nhìn rõ dã tâm nuốt trọn Đồng Văn của Pháp, sau khoảng 15 năm "tự quản" theo tinh thần hòa ước, cha con Vương Chính Đức - Vương Chí  Sình bắt đầu bí mật tái vũ trang đội quân riêng của mình. Từ năm 1930, Vương Chí Sình đã được thân phụ giao trọn quyền mua vũ khí, ngựa chiến (từ tiền  thuốc phiện) để chủ động đón đầu thời cuộc nhằm bảo vệ quyền lực cai trị Đồng Văn.

Đầu năm 1936, Pháp ráo riết mộ lính, xây đồn, đắp chiến lũy ở Đồng Văn. Quyền cai trị có nguy cơ bị đoạt lại, cha con họ Vương quyết định "tiên hạ thủ vi cường". Giữa năm đó, đích thân Vương Chí Sình đã chỉ huy dân binh Mông tập kích một đoàn tiếp vận lớn của Pháp tại đèo Lao Va Chải (nay thuộc Yên Minh) diệt sạch toàn bộ đoàn hộ tống và cướp hết quân lương, quân trang, quân dụng. Để trả đũa, Pháp vờ vịt làm ngơ, vẫn mời rất đông các thủ lĩnh Mông, trong đó có cả Vương Chính Đức về Hà Nội tham dự đấu xảo, sau đó bắt giữ và tống giam toàn bộ.

Vương Chí Sình phải tạm thời quay trở lại hòa hoãn với Pháp, đích  thân bí mật xuôi xuống Hà Nội tìm cách cứu cha. Bỏ ra 800 đồng bạc Đông Dương, Vương đã nhờ một sĩ quan cao cấp từng quen biết quay về Pháp gõ cửa nhiều nơi trong chính phủ và Bộ Thuộc địa Pháp. Phải mất gần một năm, tay sĩ quan đầu cơ chính trị này mới quay trở lại, mang theo quyết định của Chính phủ Pháp trả tự do cho toàn bộ thủ lĩnh Mông bị bắt giữ. Quyết định có ghi: "Nếu ai bị chết trong thời gian bị giam giữ, chính quyền Pháp phải cấp tiền để gia đình đưa về quê chôn cất chu đáo". Đến giữa năm 1938, Vương Chính Đức và tất cả các thủ lĩnh Mông đều được thả.

Trong gần 2 năm lo chạy đôn đáo  cứu cha, mọi quyền "điều binh khiển tướng" ở Đồng Văn, Vương Chí Sình đều khoán trắng cho tay tâm phúc của mình  là Mã Học Văn. Người  nhỏ thó, chỉ cao 1m50, nhưng trong cộng đồng người Mông Phố Bảng, Mã Học Văn vẫn  nổi lên như một tay kiệt hiệt. Ông thạo chữ Hán, biết tiếng Pháp, thông kim bác cổ và đầy mưu lược. Trong thời kỳ tranh chấp giữa người Mông Phố Bảng và người Hoa Hán ở Tổng Cản, họ Mã được người dân Phố Bảng nhất trí bầu làm "tụa thị tra" (đại đội trưởng), chỉ huy đội dân binh Mông đẩy lùi sự lấn chiếm, giành đất  của những  kẻ đến từ bên kia biên giới.

Mã Súa Lìa, em trai Mã Học Văn là con rể Vương Chí Sình cho nên ngay từ những ngày  đầu thay cha điều hành chính sự, Vương Chí Sình đã  chú ý đến Mã Học Văn. Đến năm 1930, họ Vương chính thức mời họ Mã tham gia "triều chính". Mã  Học Văn được  xem như "tể tướng" của "vương triều" thu nhỏ họ Vương. Không hổ là Nho tướng, họ Mã đã một tay quán xuyến hết mọi công việc nội trị, ngoại giao của họ Vương dưới thời Chí Sình.

Nhật vào Đông Dương, lấn lướt quyền hành của Pháp. E ngại trước sức mạnh của đạo quân Thiên hoàng nhưng cũng lo lắng trước viễn cảnh mất quyền lực tại Đồng Văn, đã có lúc cả Vương Chính Đức lẫn Vương Chí Sình tỏ ra phân vân trước quyết định  hợp tác hay bất hợp tác với Nhật. Riêng Mã Học Văn trước sau vẫn chủ trương chống Nhật. Họ Vương nghe theo.

Tháng 3/1945, Nhật hất cẳng Pháp. Khi quân Nhật tiến lên Hà Giang thì các đồn binh Pháp trên rẻo cao này đều kéo nhau... bỏ chạy hoặc nhanh chóng quy hàng. Mã Học Văn chủ trương không để quân Thiên hoàng kéo lên Đồng Văn. Theo sách lược của ông, một lần nữa, Vương Chí Sình lại tự mình dẫn một trung đội dân binh Mông lên chốt chặn Lao Va Chải và đánh tan một đại đội tinh nhuệ của Nhật đang trong thế chủ quan. Nhật dốc sức tăng quân đánh mạnh, chiếm được đồn Phố Bảng, quân Mông lại dũng cảm tập kích các toán Nhật hành quân lẻ, dùng súng hỏa mai cướp súng cối của Nhật.

Lối vào mặt trước dinh thự “Vua Mèo” ở Sà Phìn.

Sau đó, dưới tài chỉ huy của Vương Chí Sình, một lần nữa đạo quân thiện chiến của Nhật lại phải nếm mùi thất bại trên cánh đồng và con đường cửa ngõ dẫn vào Phố Bảng. Một đại  đội bộ binh và một trung  đội kỵ binh của Nhật đã phải nằm phơi xác. Điều đáng chú ý: đây  là thảm bại lớn nhất của quân Thiên hoàng trong các cuộc giao tranh trên chiến trường Đông Dương trong Thế chiến thứ hai.

Thất bại thảm hại, Nhật buộc phải theo chân Pháp cách đó 32 năm, ký với "Vua Mèo" Vương Chính Đức một thỏa ước, trong đó Nhật chấp nhận "bồi thường chiến phí" cho người Mông. Hòa ước quy định rõ: gạo, muối, bạc trắng, quân Nhật phải bồi thường đầy đủ đến từng gia đình người Mông bị thiệt hại, đồng thời phải giữ nguyên quyền tự quản của người Mông. Đổi lại, những cuộc hành binh "ngoài vùng  đất Mông" của quân Nhật, người Mông sẽ không tập kích quấy nhiễu. Cho đến trước khi Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, đây là lần duy nhất quân Nhật phải ký một hiệp ước với vị trí kẻ bại trận. Còn với "Vua Mèo" Vương Chính Đức, cả Pháp lẫn Nhật đều phải thừa nhận thảm bại dưới tay ông - điều mà không một thủ lĩnh kháng chiến nào khác ở các xứ thuộc địa châu Á làm được.

Chấp nhận cho Nhật đưa quân vào Phố Bảng, chủ trương của Vương Chính Đức, Vương Chí Sình  và Mã Học Văn đã khiến các nhà viết sử sau này lúng túng trong việc nhìn nhận thái độ, vai trò của các thủ lĩnh Mông trong việc bảo vệ độc lập, chủ quyền của Cao nguyên đá. Tuy nhiên, thời gian càng lùi xa, quyết định đó càng được thừa nhận là sáng suốt. Bị Nhật hất cẳng, một bộ phận quân Pháp bỏ Phố Bảng, Đồng Văn chạy sang Vân Nam bắt tay với quân Tưởng Giới Thạch chống Nhật.

Lợi dụng tình thế, đúng vào hồi Chiến tranh thế giới thứ hai sắp tàn cuộc với thất bại dốc xuống phe Trục, Tưởng Giới Thạch đã điều Tập đoàn quân Vân Nam do 2 tướng Lư Hán và Tiêu Văn chỉ huy áp sát cửa ngõ biên giới Việt Nam, lăm le đục nước béo cò. Sự toàn vẹn của Cao nguyên lâm nguy trước dã tâm. Ký hòa ước với Nhật, họ Vương đã tạo ra cơ hội và điều kiện để dàn quân ngăn ý đồ tiến xuống phía nam của một đạo lớn quân Tàu Tưởng, giữ trọn  miền biên viễn.

Hồ Chủ tịch là lãnh tụ sáng suốt đã nhìn thấu và đánh giá cao chủ trương đúng đắn này. Vì thế, khi kết nghĩa anh em với ông Vương Chí Sình, Hồ Chủ tịch đã tặng họ Vương một đôi bảo kiếm có khắc 2 vế đối: "Tận trung báo quốc, bất thụ nô lệ".

Năm 1947, trước khi mất, Vương Chính Đức đã viết thư cho Hồ Chủ tịch đề nghị Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cử người lên tiếp quản Đồng Văn. Gần 10 năm sau, năm 1956, Vương Chí Sình, người thay cha giữ quyền lực cao nhất ở Đồng Văn lại đề nghị bàn giao chức Chủ tịch, quyền lãnh đạo Đồng Văn và toàn vùng biên cương lân cận cho người của chính phủ, còn mình thì đưa gia đình về Hà Nội sống trong vai trò một đại biểu Quốc hội của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hai khóa I và II. Thay ông làm Chủ tịch Đồng Văn là ông Vừ Mí Kẻ, nguyên là một Mã phài (người giữ ngựa) trong dinh thự “Vua Mèo”  ở Sà Phìn nhưng đã sớm giác ngộ và đi theo Cách mạng!

N.H.L.
.
.