Lời răn từ tiềm thức của người Sê San

Thứ Hai, 22/02/2016, 16:00
Nếu hỏi bất kỳ người già Jrai sợ gì nhất, câu trả lời hẳn sẽ là “djai drăng” hiểu theo ngôn ngữ bản xứ chỉ những người “chết không được bình thường”.

Trên đỉnh đèo Sê San hùng vĩ, trong gió rừng xào xạc, giữa chốn ma thiêng thâm u đầy những “cống vật” lạ kỳ mà người sống chia của để hồn ma người chết làm tài sản ở thế giới bên kia, già làng Rơ-chăm nhót, để mình trần, dè dặt nói: “Dân làng ai cũng sợ djai drăng. Nếu làng có người bị djai drăng, phải kiêng cữ nhiều lắm, phải làm lễ cúng Yang (thần linh), cầu xin Yang thương không bắt phạt dân làng…”.

Thuộc địa phận xã vùng cao Ia M'nông (huyện Chư Pảh, tỉnh Gia Lai), đèo Sê San là con đường độc đạo hiểm trở bên vách núi dựng đứng, bên vực thẳm thâm sâu dẫn vào thế giới của tộc người Jrai bí hiểm sống tách biệt với thế giới bên ngoài. Nơi này, hơn 4 năm trước, chúng tôi đã có lần lạc lối khi lần tìm dấu tích của những mộc nhân được người bản xứ đẽo tạc từ thân độc mộc (cây rừng nguyên khối) nhằm làm bầu bạn, hay làm nô lệ cho các hồn ma người thân.

Bên trong một nhà ma giữa rừng già thâm u.

Bây giờ trở lại, Sê San của Ia M'nông vẫn như ngày nào, tách biệt, thâm u, huyền bí đến lạ kỳ, chìm trong sương mù dày đặc. Ở vùng rừng này, một lần nữa, chúng tôi khám phá luật tục mang tính "tín ngưỡng" lạ kỳ của người bản xứ dành cho những người chết chẳng may mang thân phận… "djai drăng".

1. Nếu hỏi núi rừng Tây Nguyên có nơi nào hàm chứa nhiều hiện tượng lạ kỳ, nhiều luật tục, tập tục lẫn hủ tục nhất, nơi đó hẳn là đèo Sê San dẫn vào thế giới của người Jrai của xã Ia M'nông. Cách trung tâm "phố núi" Pleiku gần 100km, đèo Sê San dài hơn 30km với vô số khúc cua tử thần, tầm nhìn ngắn, đường lên đèo biển cảnh báo nguy hiểm dày đặc…

Sê San cũng là chốn ít người tới lui. Ở lưng chừng đèo, những nóc nhà sàn cổ truyền của người bản xứ chìm ẩn trong sương mù, bóng người lầm lũi thoắt ẩn thoắt hiện trên những sườn núi đầy vẻ liêu trai!

Nhắc đến Sê San, là nhắc đến thế giới của những a-tâu (hồn ma) lạ kỳ gắn với tục làm hòm độc mộc, tục chia của cho ma, tục nuôi ma và nhất là tục chôn chung nhiều người trong cùng một huyệt mộ! Trong tiết trời cuối năm lạnh lẽo, trên hành trình rời Pleiku trở lại Sê San, những lần thám hiểm Sê San khám phá các luật tục của người Jrai sống ở đỉnh đèo tràn về ăm ắp, tôi nhớ đến cái lần ngồi bên con suối Among (tiếng bản xứ là con hổ, theo các già làng, sở dĩ suối có tên gọi ấy vì từng là nơi loài hổ ra uống nước ngắm trăng - PV) nghe các người già Jrai kể chuyện "nuôi ma".

Tôi nhớ đến cái lần được già làng Rơ-chăm Nhót, ngoài 70 tuổi khẳng định khi một người trút hơi thở cuối cùng, dù có được bỏ vào áo quan và chôn dưới đất, người thân và dân làng vẫn chưa xem người chết thực sự chết nếu tang chủ chưa làm nghi lễ "bỏ ma" (hay bỏ mả - PV) - nghi lễ cuối cùng mà từ đây, người sống sẽ không bao giờ quan tâm gì đến mộ phần của người đã khuất!

Các nhà nghiên cứu gọi lễ "bỏ ma" mà già làng Rơ-chăm Nhót đề cập là "pơthi". Còn có tên gọi là "hoă lui". Lễ pơthi hay bỏ ma là lễ nghi cuối cùng của một đời người, thường được tiến hành sớm nhất một năm kể từ khi tang chủ có người thân qua đời. Nhiều trường hợp đến hơn chục năm gia đình mới đủ điều kiện tiến hành lễ bỏ mả.

"Người chết sau khi được chôn, nó bị Thần Đất giam cầm dưới mặt đất. Khi nào gia đình đủ điều kiện làm lễ thì người chết mới được giải thoát, lúc đó nó mới được về chỗ atâu (thế giới hồn ma của ông bà tổ tiên - PV). Tùy điều kiện mà gia đình làm lễ bỏ ma lớn nhỏ. Nhưng thường thì mổ trâu, mổ bò, đãi dân làng ăn uống no say tại rừng ma giữa rừng" - già làng Rơ-chăm Nhót giải thích!

Cụ bà Thị Lệch.

Tôi đã mấy bận có cơ may được hòa mình trong thế giới đậm chất hồng hoang lẫn liêu trai của nghi lễ bỏ ma của người Jrai trên đỉnh đèo Sê San, và tại huyện Đức Cơ (tỉnh Gia Lai). Cũng từ những trải nghiệm lý thú ấy mà tôi dần khám phá nhiều luật tục kỳ lạ trong tang lễ của người bản xứ như nuôi ma (người Jrai quan niệm, khi chưa bỏ ma, người chết vẫn còn sống, nên hằng ngày người thân trong gia đình ra nhà mồ đốt lửa cho ma sưởi ấm, mang cơm cá, rượt thịt nhét vào ống lồ ô được cắm thẳng xuống huyệt mộ gọi là cho ma ăn…), chôn chung (nhiều người thân trong gia đình chôn chung một áo quan hoặc một huyệt mộ)… Thú vị không kém là tục chia của cho người chết.

Ông Rơ-chăm Phiếu, nguyên Trưởng ban Mặt trận làng Vân (xã Ialy, giáp ranh với xã Ia M'nông) cho biết của cải mà người sống chia cho người quá cố là những vật dụng mà lúc sinh thời người quá cố thường sử dụng như xà gạc, gùi, tẩu hút thuốc, đồng hồ, xe máy, giường tủ…

2. Theo luồng đi của những cánh sơn tràng chuyên luồn rừng tìm các loại biệt dược cao sơn như hồng đẳng sâm, sâm đương quy, tam thất hoang, sâm đốt trúc (còn gọi sâm K5 hay sâm Ngọc Linh)… tôi lại có dịp thượng đỉnh đèo Sê San. Lần này, tại rừng ma ở làng Dip là nhiều chuyện lạ kỳ liên quan đến những hồn ma mang thân phận djai drăng hiểu theo tiếng Kinh là…. chết xấu!

Chết xấu theo lời của chị Rơ-chăm Lan, hơn 40 tuổi, lúc chị ra nhà ma của chồng là anh Rơ-chăm Phên, bỏ thức ăn vào ống lồ ô đặng "nuôi ma"… là những người chết không phải do bệnh tật, mà là chết đột ngột, chết bất đắc kỳ tử. Người chết kiểu như thế thường do lũ cuốn, cây đổ, đá đè, hổ vồ, trăn siết… Già làng Rơ-chăm Lên, ngoài 80 tuổi, lúc tôi ghé thăm ở đầu nguồn suối Sê-San tại làng Duch 1 (Ia M'nông - PV) giải thích sở dĩ người Jrai sợ chết xấu vì cho rằng đó là những cái chết do thần linh trừng phạt. Và đó là khởi đầu của những dịch bệnh, đói kém….

"Bị chết xấu, người nhà không được để xác trong làng, phải mang ra để ở bìa rừng. Lúc làm đám tang, chỉ người lớn tuổi là bà con trong dòng tộc dự thôi, thanh niên, trẻ con… không được dự. Người chết không được chôn trong nghĩa địa của làng,  phải mang chôn nơi khác" - già làng Rơ-chăm Lên, nêu hàng loạt điều cấm kị trong quá trình làm tang ma cho người bị chết xấu.

Với người chết bình thường, người nhà sẽ cho vào miệng 7 hạt gạo (nếu là đàn ông, và 5 hạt gạo nếu là nữ). Tùy điều kiện mà tang lễ được tổ chức từ 1-3 ngày. Trong quá trình diễn ra đám tang, trống, cồng chiêng được nổi lên với thanh âm trầm hùng lay sông dội núi. Nghe tiếng chiêng tiếng trống báo tang, chẳng ai bảo ai, vậy là người trong làng của ít lòng nhiều, người mang con gà, người mang ghè rượu, người mang nải chuối, người góp sức góp công cho đám tang và ở thâu đêm với người chết!

Nhưng với người bị chết xấu hiểu theo tục djai drăng thì hoàn toàn khác biệt. Để tránh bị thần linh trừng phạt, tang chủ phải thực hiện nhiều cấm luật nghiêm ngặt có từ ngàn xưa. "Trong lúc làm đám tang, thầy cúng, già làng, gia đình không ai được khấn vái. Không được đánh chiêng, không làm nhà mồ. Sau một tháng, gia đình làm lễ bỏ ma, không được để lâu". Già làng Rơ-chăm Lên bảo vậy.

Không riêng gì già làng Rơ-chăm Lên, nhiều già làng khác ở làng Duch 1, làng Duch 2 và làng Dip ở xã Ia M'nông mà chúng tôi tiếp cận còn cho biết rằng trên hành trình tiễn đưa một người bị chết xấu theo luật tục djai drăng, nhất nhất tang chủ phải làm lễ cúng Yang, những mong lòng thành và sự cần khẩn của mình được Yang chấp nhận, cho hồn người chết được sớm về cõi atâu, và mong Yang không bắt phạt dân làng bằng việc gây ra thiên tai, địch họa!

Lễ vật dâng cúng linh thần của tang chủ có người thân bị chết xấu theo các già làng là tùy điều kiện gia đình người quá cố. Người khó khăn thì thịt lợn, người có điều kiện thì mổ bò…Việc cúng tế này là lễ nghi nhất nhất phải tiến hành, bằng không, làng sẽ trục xuất gia đình người chết ra khỏi cộng đồng. Lời cúng được vị chủ làng khấn, có nội dung như sau: "Yang cho chết xấu thì chết xấu/ Nó không có tội gì đâu/ Yang cho nó về với làng ma/ Đừng bắt phạt dân làng/ Chúng tôi sẽ cúng Yang đầy đủ".  

Nếu như tang lễ của một người chết bình thường diễn ra sôi động thì với người chết xấu, mọi việc chìm trong lặng lẽ.

3. Theo tâm tình của nhiều người già và dân làng, đó là những đám tang diễn ra trong buồn bã và lặng lẽ. Với đám ma như thế này, người chết buồn lòng đã đành, mà thân nhân của họ cũng chẳng khá gì hơn. Nhưng biết làm sao được. Đó là luật tục có từ ngàn đời!

Khi tôi hỏi về tập tục này, các già làng thường im lặng. Họ chẳng biết phải trả lời ra sao. Họ chỉ biết đó là quy định từ ngàn đời qua. Họ chỉ biết nếu một người chết không theo kiểu đau yếu dần rồi chết, nếu không chết theo kiểu đèn hết dầu thì tắt, thì đó là cái chết dữ. Cái chết như thế thì phải gắn liền với những cử kiêng, chỉ thế thôi!

Còn phải làm phép xua hồn người chết cho người chết xấu nữa!

Trong gió chiều rào rạt, cụ bà Rơ-chăm Thị Lệch hướng mắt về phía rừng ma của làng, trả lời như thế. Già bảo rằng phải làm phép xua hồn ma vì sợ hồn người chết xấu theo mùi người, theo hơi những người đưa tang vào làng, về tận nhà bắt những người khác cũng bị chết xấu như mình?

Phép xua hồn được làm theo nghi thức khi mọi người đưa tang xong, quay về làng, mọi người sẽ ghé nhà người bị chết xấu. Lúc này gia đình người chết để sẵn một nồi nước lớn, cạnh đó là đống lá cây tơngal. Rồi từng người đi đưa tang lấy cành lá cây nhúng nước rồi vẩy vào tay chân mình. Phải làm như vậy mới được về nhà. Nếu không sẽ bị ma theo dấu theo mùi gây hại!

Có một điểm chung duy nhất giữa tang lễ dành cho người chết bình thường và người chết xấu là nghi lễ hoă mnơi (kiêng tắm). Các già làng kể rằng sau đám tang, để tỏ lòng thương nhớ người thân qua đời, thường thì người chồng (hoặc vợ) sẽ không được tắm gội, không được cắt tóc, không được mặc quần áo mới, không được tham dự các cuộc vui ở chốn đông người… Rồi phải hạn chế tiếp xúc với người thân quen cũng như người làng, không đến nhà người khác và cũng không để ai đến nhà mình, tránh để người lạ trông thấy…

Thời gian kiêng cữ như thế thường là một tháng và chỉ chấm dứt khi tang chủ tiến hành nghi thức cúng tạ ở nơi chôn người thân. Sau nghĩ lễ hoă mnơi này, việc tái hôn của người chồng (hoặc vợ) chỉ được cho phép sau từ 2-3 năm kể từ ngày người thân qua đời!

Từ bây giờ đến tháng 3 âm lịch, Tây Nguyên bước vào mùa đẹp nhất, mùa hoa pơlang (hoa gạo) nở đỏ rực khắp các cánh rừng. Mùa hoa pơlang nở là lúc những gia đình người Jrai tiến hành lễ pơthi - bỏ ma người thân với ngày vui linh đình, rượu thịt được bày ra ê hề tại nhà ma của người chết, và mọi người cùng ăn uống, đánh chiêng, vui chơi thâu đêm suốt sáng mừng cho hồn người chết từ đây được giải thoát khỏi sự giam cầm của Thần Đất, được về sống chung với hồn ma tổ tiên.

N.T.D.
.
.