Ngược dòng Cấm Sơn

Thứ Năm, 28/11/2019, 19:55
Ở miền thượng du tỉnh Bắc Giang có một hồ nước bao la đang cung cấp nước sạch cho cả TP Bắc Giang, một phần huyện Lạng Giang, cùng một lượng lớn tôm cá nuôi sống bao thế hệ đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây - đó là hồ Cấm Sơn thuộc huyện Lục Ngạn.

Điều đáng nói ở hồ nước ngọt nhân tạo thuộc hàng lớn nhất miền Bắc này là sự nguyên sơ, thuần khiết của cảnh quan, sự mộc mạc, thân thiện của con người. Nơi non cao cảnh đẹp ấy đã tạo cảm hứng cho ca khúc nổi tiếng “Hồ trên núi” của nhạc sĩ tài hoa Phó Đức Phương.

Sẵn tôm, đầy cá

“Cấm Sơn có núi Ba Hòn, có đoàn du kích lên non diệt thù”. Tìm về câu ca xưa, chúng tôi ngược đèo lên Cấm Sơn. Thu sang mang theo hơi lạnh và cái nắng vàng hanh hao trải khắp núi rừng, những cơn gió heo may ngập tràn như càng góp thêm cho hồ Cấm Sơn nét thanh bình, yên ả. Làn nước trong xanh, sóng vỗ dập dềnh, chiếc thuyền nan khua nhẹ mái chèo lướt trên sóng nước, mặt hồ in bóng núi rừng như gom cả trời thu xuống đáy nước bao la.

Bạt ngàn bông lau, hoa dại bung nở trắng quanh hồ... Quả là một bức tranh sơn thủy đan xen cùng những nếp nhà đất nâu đã óng màu thời gian của người Tày, Nùng, Cao Lan, Sán Chỉ, càng khiến cho cảnh thu ở Cấm Sơn thêm khoáng đạt, yên bình.

Hồ Cấm Sơn có hàng trăm đảo lớn nhỏ.

Đoàn có mặt ở Cấm Sơn sau hành trình hơn 1 giờ đồng hồ di chuyển từ TP Bắc Giang trên quốc lộ 1A, ngược Hữu Lũng (Lạng Sơn) rồi đi vào đường nhánh rẽ sang xã Tân Sơn. Đường đi khá thuận lợi và cảnh quan hai bên mỗi lúc như mở ra bao điều mới lạ. Thi thoảng lại gặp những bóng áo chàm của đồng bào Tày, Nùng rủ nhau đi chợ phiên. Hồ Cấm Sơn hiện ra trước mắt với cảm giác thực sự ngỡ ngàng, làn nước mát tỏa ra cùng tiếng gió rì rào bên những rặng keo, thông cao vút ven hồ, đã lâu lắm rồi tôi mới cảm nhận được “mùi” của khí núi hương trời thật đậm sâu đến vậy.

Đoàn thuê thuyền máy cùng một người dân rẽ sóng du ngoạn đi qua các đảo chìm, đảo nổi, trò chuyện cùng thợ đánh cá và hòa chung với sóng nước mây trời. Cũng có khi bước chân lên đảo khám phá các bản làng, tìm hiểu về cuộc sống, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng dân tộc. Và cũng không quên thưởng thức món tôm, cá nướng trên đảo nhỏ, món gà đồi luộc thơm mùi lá chanh, nhâm nhi chén rượu men lá Kiên Thành mền môi ấm áp.

Thật hấp dẫn khi chứng kiến mẻ cá vừa được kéo lên từ lòng hồ của một ngư dân tên Vi Văn Đương với đủ các loại trôi, chép, chạch chấu, cua, tôm... còn tươi rói. Đó là thành quả của một đêm thả lưới vương của anh Đương với bao vất vả nhọc nhằn. Anh Đương bảo: “Trước đây mỗi gia đình trong các đảo đều có vài sào ruộng để trồng lúa và hoa màu nhưng khoảng 3 năm nay mực nước hồ dâng cao tới 4 đến 5m nên ruộng đất bị chìm ngập hết, thậm chí nhiều vườn cây ăn quả cũng héo úa vì bị úng. Không có đất, chúng tôi chỉ biết trông vào những đêm may rủi với nghề chài lưới này”.

May thay, nguồn thủy sinh ở hồ khá phong phú. Hầu hết các gia đình tại đây đều có lưới vương, lưới chùm, lưới bát quái, vó, rọ tôm, thuyền nan, thuyền máy. Đánh bắt được nhiều, ăn không hết lại chuyển cá lên bờ bán lấy tiền mua gạo và các vật dụng thiết yếu. Hoặc cũng có khi người dân chọn những con cá mương, cá thiểu loại nhỏ ướp muối, phơi khô để dành được lâu.

Mẻ tôm tươi vừa được người dân đánh bắt từ hồ Cấm Sơn.

Xưa nay Cấm Sơn vẫn được xem là “ốc đảo” hoang vu, người dân trong vùng lòng hồ gần như sống biệt lập với thế giới bên ngoài nên đồng bào khá chất phác, thân thiện. Dù đường giao thông đã phần nào được cải thiện hơn so với trước song những chiếc thuyền vẫn là phương tiện chính của bà con. Họ đi chợ bán cá, bán nông sản hằng ngày bằng thuyền, trẻ em đến lớp bằng thuyền và thậm chí từ nhà nọ sang nhà kia cách nhau có có vài mét cũng phải sử dụng thuyền.

Cuộc sống của họ bao đời nay vẫn lênh đênh cùng sóng nước. Công cuộc mưu sinh giữa lòng hồ có biết bao gian truân nhưng thương nhất là những em nhỏ phải tự chèo thuyền đến trường và bé nào cũng bơi giỏi như rái cá, chèo thuyền thật điêu luyện, cả những cô giáo trẻ miền xuôi “yêu nghề mến trẻ” phải cắm bản cả tháng trời mới có dịp ra ngoài phố gọi là để... “giải ngố”. Những người nông dân cứ mãi quanh quẩn mưu sinh quanh mặt hồ, họ bắt được mớ cá, mẻ tôm hay trồng được quả vải, quả nhãn thì phải rất vất vả vì mất cả ngày trời để mang lên được bờ tiêu thụ. 

Mùa này hanh khô, nước hồ Cấm Sơn bắt đầu rút sâu hơn, để lộ ra những bãi phù sa, người dân lại tranh thủ trồng hoa màu ven bờ nhưng sự mênh mang của hồ nước vẫn còn hiện rõ. Anh Vi Văn Trên, dân tộc Nùng, nhà nằm trên một hòn đảo nổi dẫn chúng tôi quanh hồ bằng thuyền máy, kể: Nghe đâu mấy năm nay chính quyền đang tích nhiều nước hồ để phục vụ dự án phát triển du lịch. Lượng khách du lịch đến hồ cũng ngày càng đông hơn nên thay vì phải nhọc nhằn với nghề đánh cá, anh chuyển sang làm dịch vụ chạy thuyền máy phục vụ du khách vãn cảnh hồ, cộng thêm dịch vụ ẩm thực mà chủ yếu là nướng gà, nướng cá khi khách có nhu cầu.

Chàng trai người Nùng này đang hy vọng, biết đâu du lịch đi lên, anh sẽ không còn phải sớm hôm với nghề đánh cá mà chuyển hẳn sang làm dịch vụ du lịch để có thu nhập ổn định hơn!... Rõ ràng người dân trong vùng đang nuôi hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn khi khu du lịch Cấm Sơn được đầu tư và phát triển.

Là người sinh ra và lớn lên trên lòng hồ Cấm Sơn, anh Vi Văn Trên thuộc nằm lòng từng ngõ ngách trên hồ, anh kể cho đoàn về những sự kiện lịch sử, những sự tích về làng Mấn, đảo Lăn Lóc, núi Ba Hòn nhuốm màu huyền thoại...

Một cây cầu tạm nối ra đảo ở vùng hồ Cấm Sơn.

Chuyện là năm 1947, thực dân Pháp tràn về khu vực Lạng Sơn và chiếm đóng núi Ba Hòn thuộc tổng Cấm Sơn, khi đó chưa có hồ nước như ngày nay, nơi đây được đánh giá có vị trí đắc địa, nếu tiến có thể nhanh chóng vượt qua đèo Quao sang Lạng Sơn, khi lui sẽ tạo thế phòng thủ. Đội du kích núi Ba Hòn được thành lập. Năm 1950, sau hơn 3 năm kháng chiến, quân Pháp đã bị đánh bật khỏi Cấm Sơn, người dân từ khắp nơi lại trở về sinh sống, xây dựng bản làng.

Hay chuyện giữa hồ có một ngọn đồi nhỏ tên là “đồi 63” vì năm 1974, đơn vị thủy sản của địa phương đã quây lưới đánh bắt được tới 63 tấn cá. Ở ven hồ kia, một số hộ đã làm bè nổi nuôi thả cá. Một số người ở các tỉnh khác còn phát triển mô hình làm bè lồng nuôi cá hồi xứ lạnh tại Cấm Sơn. Nơi đây còn có sự tích núi Ba Hòn đã nhuốm màu huyền thoại...

Bảo vệ hồ nước ngọt quý giá

Được biết, hằng năm, ngành nông nghiệp địa phương đã thả vài tấn các loại cá như: Trôi, mè, chép và rô phi nhằm bổ sung, tái tạo nguồn lợi thủy sản tự nhiên; tạo điều kiện giúp bà con các xã vùng hồ tăng nguồn thu nhờ khai thác, đánh bắt cá tại chỗ. Lắm tôm cá và cảnh quan tươi đẹp là lý do để nhiều nhóm, câu lạc bộ câu cá ở các thành phố lớn tìm về Cấm Sơn cắm trại vui chơi giải trí.

Trong khi đó, từ năm 1992 đến 1998, quanh hồ Cấm Sơn được dự án CARE (Úc) đầu tư trồng rừng phòng hộ, diện tích cây xanh đã được phủ kín nên tạo cảnh quan môi trường sinh thái rất thân thiện. Cấm Sơn không chỉ có tôm cá nhiều mà hơn hết là chất lượng nguồn nước rất tốt bởi xung quanh người dân trồng rừng bao phủ, lại không có hoạt động sản xuất công nghiệp xả thải ra môi trường.

Nằm ở độ cao khoảng 300m so với mực nước biển, hồ Cấm Sơn là công trình đại thủy nông lớn của cả nước và lớn nhất miền Bắc. Công trình trải rộng qua địa phận 4 xã gồm: Cấm Sơn, Tân Sơn, Hộ Đáp và Sơn Hải, có nhiệm vụ điều tiết, cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp khu vực huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) và huyện Hữu Lũng (Lạng Sơn); điều hòa nguồn nước khu vực đầu nguồn sông Thương; phân lũ, cắt lũ cho vùng hạ lưu ở các huyện thuộc tỉnh Bắc Giang. Với diện tích khoảng 2.650ha, hồ Cấm Sơn đã trở thành tài sản quý giá mang lại nguồn lợi lớn cho địa phương.

Trẻ em quanh hồ Cấm Sơn được dạy bơi, chèo thuyền từ nhỏ.

Đặc biệt, theo đánh giá của các nhà chuyên môn, hồ Cấm Sơn là một trong những hồ nước ngọt tự nhiên quý giá và lớn nhất Việt Nam, có chất lượng nước tốt, lưu lượng ổn định, ít bị ảnh hưởng từ các hoạt động gây ô nhiễm, đây cũng chính là lý do để mới đây một doanh nghiệp chuyên cung cấp nước sạch đầu tư xây dựng nhà máy nước sạch lấy nước từ hồ cấp cho nhân dân trong khu vực.

Dù vậy, trước sự cố gần đây nguồn nước sinh hoạt của người dân Hà Nội được lấy từ thượng nguồn sông Đà bị ô nhiêm do bị xả chất thải độc hại vào nguồn nước, chúng ta chưa thể hoàn toàn yên tâm, bởi rất có thể một ngày nào đó hồ Cấm Sơn lại bị đầu độc tương tự như hồ Đầm Bài ở Hòa Bình. Do đó bảo vệ an toàn nguồn nước sạch chính là nhiệm vụ mà cơ quan có trách nhiệm cần tăng cường các biện pháp phòng ngừa. Được biết, hiện một số doanh nghiệp trong nước đang khảo sát tiến tới xây dựng dự án khu du lịch sinh thái Cấm Sơn.

Địa phương cũng đã có những chính sách ưu đãi thu hút đầu tư vào khu du lịch này. Và trước khi điều đó thành hiện thực, việc làm tốt công tác bảo vệ môi trường sinh thái; bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc cần phải được quan tâm chú trọng. Về lâu dài, địa phương cần huy động đầu tư xây dựng nâng cấp cơ sở hạ tầng, điện đường trường trạm, nhân rộng và phát triển mô hình nuôi cá lồng... làm được điều đó tin chắc rằng cái đói, cái nghèo ở Cấm Sơn sẽ dần đi vào quá khứ, để những trẻ thơ yên tâm đến trường và khắp bản trên làng dưới rộn tiếng ca vang.

Một chuyến đi trọn vẹn trong ngày ở Cấm Sơn đã cho chúng tôi thu hoạch bao điều mới lạ và những trải nghiệm đáng quý. Chia tay Cấm Sơn khi chiều buông với tâm trạng đầy lưu luyến, trong lòng lại gợi về câu hát trong nhạc phẩm của nhạc sĩ Phó Đức Phương được sáng tác vào năm 1971 lấy cảm hứng từ một chuyến đi thực tế đến hồ: “Thuyền ta ngược, thuyền ta xuôi/ Giữa dòng nước bạc nhịp chèo ta bơi/ Ai đắp đập, ai phá núi/ Cho hồ nước đầy làm mặt gương soi/ Non xanh mà nước biếc...”.

Đông Khánh
.
.