Ông già vớt xác và món nợ ly kỳ với “thần sông”

Thứ Năm, 19/07/2012, 11:10

“Gia đình tôi đến nay đã có 6 đời sinh sống trên dòng sông Lam. Ngoài việc sinh sống bằng nghề chài lưới, chúng tôi còn phải làm một công việc để trả nợ "thần sông" đó là chuyên đi vớt xác người chết đuối trên dòng sông Lam. 70 năm qua, tôi đã vớt được hàng trăm xác người. Có những người chết đuối vì đắm thuyền như lần 19 em nhỏ bị lật thuyền tại bến đò Chôm Lôm (xã Lạng Khê, huyện Con Cuông, Nghệ An), hay nạn nhân là những người thiệt mạng trong vụ đắm xe khách làm 20 người chết đuối trên dòng sông Lam vào tháng 6/2011... Đặc biệt phần lớn trong số đó là những người xấu số buồn phiền vì chuyện gia đình, tình yêu không trọn vẹn, không lấy được nhau, bị phụ bạc, trượt thi cử… đành tìm một lối thoát dại dột là gieo mình xuống dòng sông Lam…”.

Hành trình 70 năm và vớt hàng trăm xác người trên sông

Huyền, cháu dâu của ông Nguyễn Văn Việt dẫn chúng tôi ra bến sông ngay sát chân cầu Bến Thủy, nơi  ông Việt đang neo thuyền vì hôm nay nước sông chảy xiết không thể giăng lưới đánh cá. Từ trên bờ, Huyền lấy hai tay che miệng gọi ông, dù gió thổi khá mạnh song ông Việt vẫn nghe thấy tiếng cháu và nhỏm dậy hỏi: "Có việc chi?". Khi biết chúng tôi lặn lội hơn 300 cây số từ Hà Nội gặp ông theo lời đồn về một ông già 70 tuổi đã có công cứu vớt hàng trăm người chết đuối dưới dòng sông Lam và là người lưu giữ nhiều câu chuyện kỳ lạ về "vị thần" cai quản ở dưới chân cầu Bến Thủy. Ông già đen đúa, gầy guộc nhưng khỏe mạnh kéo con thuyền gỗ bé xíu neo gần chiếc thuyền lớn kiên cố hơn, sải hai mái chèo vào bờ đón.

Khi tôi giới thiệu mình là nhà báo, ông hắng giọng tỏ vẻ không hài lòng: "Nhà báo, nhà biếc chi hàng chục người từ trong Nam ngoài Bắc đến hỏi han, tốn nác (nước), mất thì giờ chứ bầy tui có được chi mô mà hỏi với han". Tôi cười gượng: "Vậy chứ người ta không quay lại biếu ông báo à?". "Ôi, báo biếc chi có xé ra mà ăn được mô! Mà cũng chẳng có ai quay lại. Bầy tui thì giờ mô mà đọc báo". "Một ngày bây giờ ông đánh cá bán được bao nhiêu tiền ạ?". "Thời buổi bây chừ khó khăn lắm, nước sông ô nhiễm. Người làm đông hơn. Mỗi ngày kiếm được dăm chục một trăm đã là mừng lắm. Mà có phải ngày nào cũng giăng lưới được mô. Mấy bữa ni trời không ủng hộ, thời tiết lúc thì mưa to như trút thủng dột cả mái thuyền, lúc thì nước chảy xiết… Thân già 70 tuổi, yếu rồi chứ không còn như ngày thanh niên…".

Ông cột dây chiếc thuyền câu vào mạn thuyền lớn, giữ để thuyền không tròng trành cho tôi bước lên. Con thuyền lớn của ông được làm kiên cố bằng xi măng tránh mục nát. Thuyền cao chỉ vừa đầu người, bên trong chẳng có gì ngoài vài chiếc nồi bằng nhôm méo mó, vài chiếc bát sứt sẹo được úp cẩn thận vào chiếc rổ nhựa đã úa màu thời gian và rất nhiều dụng cụ đánh bắt cá như câu, lưới...

Ngồi trong thuyền, chị Ngô Thị Hồng, người vợ thứ hai kém ông 35 tuổi (họ về ở với nhau sau một thời gian khi người vợ đầu của ông Việt mất vì bệnh ung thư - PV). Thấy chúng tôi đến gương mặt chị cũng lộ vẻ không hài lòng. Chị nói lại những lời ông Việt đã nói với tôi trên thuyền: "Các cô chú thì viết báo có tiền, chứ ông bầy tui thì nói rạc cổ, làm dài hơi, ôm hàng trăm cái xác trên tay làm phúc rồi nhưng có được cái trự (đồng) mô. Nói ra thì buồn lắm". Rồi chị nói chuyện với chồng: "Mà cả tháng ni đen quá ông hậy (nhỉ). Kể từ cái bữa cứu sống được con bé nhảy sông tự tử. Hình như “thần sông” giận chi bọn tui đó. Toàn gặp sóng to, gió cả, mưa bão chi chi…".

Chả là đầu tháng 6 vừa rồi, khi đang thả lưới ở gần cầu Bến Thủy, ông Việt bỗng nghe thấy tiếng la ó thất thanh của những người trên bờ, đứng dàn hàng ngang dày đặc trên cầu vì có một người vừa nhảy cầu tự tử. Nhanh như cắt, ông Việt chạy thuyền đến thì vẫn nhìn thấy một bàn tay chới với chưa chìm hẳn, tóc vẫn còn nổi bồng bềnh trên mặt nước. Ông túm tóc kéo được người lên thì hóa ra là một cô gái chừng 19 - 20 tuổi.

Theo kinh nghiệm, ông sờ mạch biết cô còn sống, nên đã làm sơ cứu và vài phút sau, cô gái đã tỉnh lại. Coi như con cháu mình, ông Việt hỏi han vì sao mà làm điều dại dột này. Cô gái vừa khóc vừa kể lại: Quê của cô ở Hưng Nguyên (Nghệ An), vì gia đình nghèo nên phải đi làm thuê cho một cửa hàng photocopy ở TP Vinh. Có chút tiền, cô đã đi nhuộm tóc và khi về quê thì bị cha mẹ chửi mắng, anh trai  đánh. Giận quá mất khôn, cô đã tìm cách giải thoát dại dột là đi… nhảy cầu để kết thúc đời sống. Biết chuyện, ông Việt đã cho cô gọi nhờ điện thoại cho người chủ ở Vinh đến đón cô. Sau khi khỏe lại, cô gái xin phép ra về và hứa sẽ trở lại để cảm tạ ông Việt đã cứu sống, nhưng rồi cô đi một mạch không trở lại…

Ông Việt bảo rằng, trong số hàng trăm người nhảy cầu Bến Thủy, chỉ có vài trường hợp hiếm hoi sống sót. Và theo quan niệm duy tâm người ta đồn rằng, khi cứu được một người sống, có nghĩa là mình đã lấy đi "bữa ăn" của "thần sông", vì thế, bản thân gia đình người được cứu sống phải làm một cái lễ hình nhân thế mạng đốt cho "thần sông". Nếu không, chính gia đình thuyền chài sẽ phải chịu hậu quả(?!).

Ông Việt nói rồi ngậm ngùi: "Nhưng sống nhờ sông thì phải làm việc nghĩa để trả ơn. Bởi thế mà hai bàn tay của tôi (nói rồi ông giơ hai bàn tay chai sạn, thô ráp cho PV xem) đã từng bế đỡ bao nhiêu xác người, nhưng chưa bao giờ tôi đòi hỏi người nhà nạn nhân  phải đưa cho mình bao nhiêu tiền. Đó là một việc làm phúc nhưng cũng là một cái nợ phải trả của những người dân thuyền chài như chúng tôi. Thậm chí, có những hôm đi đặt câu, thay vì được cá tôm, thì xác người mắc lại. Hầu hết chúng tôi vớt được những cái xác có chủ, nhưng những cái xác vô chủ thì tôi và người nhà lại phải tự tay đào huyệt để chôn cất họ. Cực không thể tả!".

Trên chiếc thuyền câu neo đậu dưới cầu Bến Thủy.

Chiếc câu "tử thần", vật chứng của "những linh hồn chết"

Nói là chiếc câu, nhưng thực tế, đó là một chiếc lưới dài chừng 30m có một trục chính là hai thanh tre bản rộng khoảng 7cm dùng để móc lưới được ngâm bùn 3 tháng mới vớt lên. Hơn 600 móc câu (mỗi cái dài chừng 10cm) cột với 150 cái phao do tự tay ông Việt chế tác. Ông cho biết, cái móc câu này ông làm từ năm 18 tuổi khi được cha mẹ cho tự lập trên chiếc thuyền câu gỗ. Ông đã mất khoảng 3 tháng mới hoàn thành nó. Chiếc câu đã đi theo ông trong suốt gần 70 năm cuộc đời và chứng kiến đủ mọi vui buồn của gia đình ông, của những cái xác mắc vào nó. Chiếc câu là nơi mang lại nguồn cá, tôm cho ông khi ra sông giăng lưới nhưng cũng là công cụ duy nhất ông mang theo khi đi vớt xác người.

Ông bảo rằng, ngày nào ông cũng mang câu ra mài, dũa nên nó còn sắc hơn cả kim. Đã có nhiều người hỏi mua chiếc câu này, họ trả giá cao lên đến tiền triệu hẳn hoi nhưng ông nhất định không bán. Ông sẵn sàng cho người ta xem mẫu để về làm theo nhưng dù trả giá mua cao bao nhiêu ông cũng lắc đầu.

Ông Việt kể: "Mới đầu năm nay, có đôi tình nhân là người đàn ông trạc tuổi trung niên làm nghề chạy xe ôm quê ở Nghệ An, còn người phụ nữ là sinh viên ở ngoài Bắc vào học tại một trường đại học ở Vinh. Họ đem lòng yêu nhau nhưng gia đình cả hai bên đều không đồng ý. Muốn được ở bên nhau trọn đời vì thế, hai người đã dùng dây thừng buộc nhau lại và gieo mình xuống dòng sông Lam. Đó là một cuộc tìm kiếm khó khăn cho tất cả chúng tôi. 4 chiếc thuyền câu ngày đêm quần thảo trên dòng sông nhưng phải vài ngày mới tìm được vì đôi tình nhân trôi đi một đoạn khá xa.

Cũng may mà chiếc câu của tôi đã móc phải chiếc dây thừng buộc hai người, nhưng khổ nhất là công đoạn trục vớt hai người vì quá nặng. Chiếc câu này đã làm được nhiều việc thiện và tôi xác định nó sẽ gắn bó với mình cho đến khi chết. Nhưng cũng khổ lắm cô ạ. Ngày xưa sông không ô nhiễm thì thả câu là cá là tôm mắc vào, nhưng giờ đây, đi thả câu xong, có khi chỉ vớt được toàn những bọc ni lông đựng rác to vật vã mà những người dân vô ý thức đã thả nó xuống dòng sông".

Truyền nghề… vớt xác cho con

Ông Việt sinh được 9 người con, 6 trai 3 gái với người vợ đầu. Bây giờ, nối dõi cha mình, các con của ông vẫn tiếp tục nghề chài lưới và kiêm luôn nghề… vớt xác người. Chị Nguyễn Thị Nguyệt, con gái đầu lòng của ông nổi tiếng cả một vùng Nghi Xuân - Hà Tĩnh. Ngoài việc vớt xác, chị thường được người nhà nạn nhân nhờ tắm rửa sạch sẽ cho những cái xác đôi khi không còn lành lặn để họ khâm liệm và mang về quê.

Chị Nguyệt kể lại, gần đây, cô gái tên Lê ở thị trấn Kỳ Anh, Hà Tĩnh, 2 năm liền thi đại học đều trượt nhưng vẫn quyết tâm ôn thi lần thứ 3. Gần đến ngày thi, Lê xuống một lò luyện thi ở TP Vinh. Do áp lực quá lớn vì đã quá tam ba bận, Lê căng thẳng nên đã nghĩ đến việc uống thuốc ngủ để kết liễu cuộc đời mình nhưng may mắn có người phát hiện và kịp thời ngăn lại. Tưởng cô đã từ bỏ ý định dại dột đó, nào ngờ mấy ngày sau, đến đêm Lê lên cầu Bến Thủy và gieo mình tự vẫn. Đó là một cuộc tìm kiếm đầy khó khăn đối với những người vớt xác. Bởi cô gái nhảy cầu trong đêm đã bị nước cuốn trôi đi xa tới cả chục kilômét. 4 chiếc thuyền câu của gia đình chị đã phải làm việc cật lực mất mấy ngày trời mới vớt được xác cô gái để trao trả cho gia đình mang về mai táng.

Rồi trong dòng hồi tưởng, chị chia sẻ: "Tôi vẫn nhớ như in ấn tượng từ thuở nhỏ bởi những tiếng gọi đò, những tiếng thét trong đêm thanh vắng của người nhà nạn nhân. Có những lúc tôi và các em nằm ngủ trên chiếc thuyền đi vớt xác của cha mẹ mình rồi chợt choàng tỉnh dậy vì thuyền tròng trành và hoảng hốt, sợ hãi khi nhìn thấy xác người tím tái, nhợt nhạt, bê bết bùn đất trên cơ thể được cha mẹ mình vớt lên. Nhưng cảm giác ấy cũng dần qua đi khi chính tay tôi đã giúp cha mẹ kéo những cái xác nặng trịch từ dưới sông lên thuyền. Đã gần 40 năm làm thêm nghề vớt xác, tôi coi đó là nghề làm phúc để những oan hồn được siêu thoát và phù hộ toàn thể cho gia đình mình. Đó là một công việc khó khăn nhưng không thể không làm của những người dân vạn chài chúng tôi. Cũng bởi kề cận nhiều với những xác người, hơi người nên tôi và cha tôi đều bị đau khớp, thỉnh thoảng trở trời đau buốt khổ lắm!".

Dụng cụ chuyên để mài câu.

Nỗi lo xa của “ông lão đánh cá”

Ông Việt nghiêm nét mặt hỏi tôi: "Mà hình như đang có kỳ thi đại học phải không cô?". Tôi tư lự: "Vâng ạ! Nhưng sao hả ông?". "Để mà coi, tới đây thi xong biết kết quả thể nào cũng có vài đứa dại dột tìm đến nhảy cầu, mong là chẳng xảy ra chuyện đó…".

Tôi không đáp trả ông vì với kinh nghiệm của 6 đời sống nhờ nghề đánh cá, ông Việt hiểu hơn về quy luật sinh tử ở vùng đất này hơn tôi. Cũng như bản thân ông, dù 70 năm lênh đênh trên sông nước, nhưng cuộc sống của ông cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sự hào phóng của dòng Lam.

Ông chẳng mấy khi xem tivi, không nghe đài đọc báo, không biết đến những đổi thay đến chóng mặt của cuộc sống trên bờ. Nhưng có một điều khiến ông lo lắng chia sẻ cùng tôi trong suốt cuộc nói chuyện, đó là ông không hiểu vì sao, càng ngày càng nhiều người trẻ tuổi dại dột tự tìm đến cái chết trong khi phía trước của họ là cả một tương lai rộng mở. Và họ không hiểu rằng, suy nghĩ của họ là hoàn toàn lệch lạc, cực đoan, hành động dại dột của họ sẽ để lại nỗi đau cho nhiều người. Họ hoàn toàn không hiểu được sự mất mát, đau đớn của các bậc làm cha làm mẹ như đứt từng khúc ruột khi chứng kiến cảnh đứa con mình ẵm bồng, nuôi nấng bao năm qua đã tự kết thúc cuộc đời mình khi còn quá trẻ.

Điều này cũng báo động một hiện tượng nhỏ những suy nghĩ bồng bột, nông nổi và hết sức dại dột trong giới trẻ, cũng như sự quan tâm chưa đúng mức đến đời sống tâm lý của con cái của những bậc phụ huynh. Để ngăn chặn rất cần sự chung tay của cả cộng đồng

Thiên Kim
.
.