Bại tướng Ngô Quang Trưởng

Thứ Hai, 14/05/2012, 15:00

Những ngày dài sống lưu vong trên đất Mỹ, Ngô Quang Trưởng không giống những tướng tá của chế độ Sài Gòn trước đây là tham gia vào những cuộc hội họp hay bình luận về sự kiện giải phóng Sài Gòn hay phân tích những nguyên nhân bại trận của họ. Ông ta sống rất lặng lẽ trong nỗi trầm uất cay đắng của một viên tướng thua cuộc. Ai đó có cố gắng gặng hỏi một điều gì về một thời chiến cuộc, ông ta đều tảng lờ sang một câu chuyện khác...

Trong số tướng lĩnh của quân đội Sài Gòn trước năm 1975, trung tướng Ngô Quang Trưởng được xem như là một ông tướng cứng rắn, kỷ luật và khá "sạch sẽ", tận tụy với chức phận của một quân nhân. Ông ta từng là cứu cánh của Tổng thống chế độ Việt Nam cộng hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu khi Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị-Thiên của ta nổ súng tấn công và làm chủ các cụm cứ điểm của ngụy ở vùng giới tuyến Quảng Trị. Tuy nhiên, trước những đòn tấn công như vũ bão của Quân giải phóng, Ngô Quang Trưởng đã không thể cầm cự mà phải tháo chạy cùng đoàn quân thất trận của mình để tìm đường di tản về Sài Gòn, rồi sau đó, tiếp tục những tháng ngày lưu vong trong nỗi cô đơn cay đắng nơi đất khách quê người cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng vào ngày 22/1/2007.

Chặng đường binh nghiệp

Ngô Quang Trưởng sinh năm 1929 tại Kiến Hòa, một vùng đất thuộc vùng châu thổ sông Mê Kông, đồng bằng sông Cửu Long trong một gia đình điền chủ, có người anh trai là một tay buôn bán phụ tùng ôtô có tiếng ở Sài Gòn. Sau khi tốt nghiệp trung học ở Mỹ Tho, Ngô Quang Trưởng theo học Khóa 4 Liên trường võ khoa sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Ra trường năm 1954 với cấp bậc thiếu úy, ông ta được điều chuyển ra miền Bắc tăng cường cho Tiểu đoàn 5 nhảy dù đang tham chiến tại mặt trận Điện Biên Phủ. Tuy nhiên, khi tân thiếu úy Ngô Quang Trưởng có mặt ở đơn vị thì cuộc chiến ở Điện Biên Phủ đã kết thúc. Quay về miền Nam với "chiến tích" thoát chết ở Điện Biên Phủ, ông ta được bổ nhiệm làm Đại đội trưởng Đại đội 1 của Tiểu đoàn 5 nhảy dù.

Tháng 5/1955, Ngô Quang Trưởng tham gia cuộc tiễu trừ quân phiến loạn Bình Xuyên. Sau khi chiến dịch tiễu trừ này kết thúc, viên chỉ huy lực lượng lính dù là Nguyễn Chánh Thi được Ngô Đình Diệm ưu ái gắn trên vai chiếc lon trung tá, còn Đại đội trưởng Đại đội 1 Ngô Quang Trưởng thì được gắn lon trung úy một cách khá dễ dàng. Ngày 11/11/1960, Nguyễn Chánh Thi đã cầm đầu một nhóm sĩ quan trẻ làm đảo chính nhằm hạ bệ anh em Diệm-Nhu, nhưng bất thành nên phải đào tẩu sang Nam Vang tị nạn. Sau biến cố này, Ngô Quang Trưởng được gắn lon đại úy. Năm 1964, Trưởng lên thiếu tá và được cử giữ chức tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 nhảy dù.

Năm 1965, Ngô Quang Trưởng được thăng cấp trung tá và được cử giữ chức Tham mưu trưởng Sư đoàn nhảy dù. Một năm sau, Ngô Quang Trưởng lại được thăng cấp đại tá và được bổ nhiệm làm Tư lệnh phó Sư đoàn dù, dưới quyền chỉ huy của tướng Dư Quốc Đống.

Năm 1966, sau biến cố bạo động ở miền Trung, Ngô Quang Trưởng được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 1 bộ binh, dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm - Tư lệnh Quân đoàn 1 - Vùng 1 chiến thuật. Năm 1967, những đơn vị như đại đội hắc báo trinh sát, Chi đoàn 2/7 thiết vận xa M113, tăng phái Tiểu đoàn 9 nhảy dù thuộc Sư đoàn 1 bộ binh do Trưởng làm tư lệnh đã có nhiều cuộc giao tranh với Quân giải phóng ở mặt trận Thừa Thiên. Để cổ vũ tinh thần cho viên tư lệnh chiến trường, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và các quan thầy người Mỹ đã không ngần ngại gắn lên vai Ngô Quang Trưởng chiếc ga-lông chuẩn tướng. Tháng 5/1968, sau chiến cuộc Mậu Thân, Trưởng được phong hàm thiếu tướng và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn 4 - Vùng 4 chiến thuật (khu vực miền Tây Nam Bộ). Tháng 11/1970, Ngô Quang Trưởng được thăng quân hàm trung tướng.

Từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 5/1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị-Thiên của Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện những đợt tấn công như vũ bão vào các cứ điểm của quân đội VNCH đóng dọc theo vùng giới tuyến, tiêu diệt rất nhiều sinh lực của ngụy binh và cố vấn Mỹ. Nhiều đơn vị lính ngụy ở Cam Lộ, Gio Linh, Đông Hà, Ái Tử và thị xã Quảng Trị bị đánh tan tác, số rã ngũ, số đầu hàng xin được trở về với Cách mạng…

Đầu tháng 5/1972, Ngô Quang Trưởng được Nguyễn Văn Thiệu triệu hồi từ Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 ở Cần Thơ về Sài Gòn để giao nhiệm vụ mới. Ngay sau đó, Trưởng đã đáp máy bay ra Huế để thay trung tướng Hoàng Xuân Lãm làm Tư lệnh Quân đoàn 1 - Vùng 1 chiến thuật với trách nhiệm nặng nề là "tái chiếm thành cổ Quảng Trị từ tay Cộng sản". Tới Huế, ông ta đã thực hiện một chiến dịch tuyên truyền nhằm trấn an binh tình một cách huê dạng và sặc mùi cải lương rằng: "Đồng bào ở Huế từ nay không cần phải lo sợ nữa, vì quân đội Bắc Việt muốn chiếm được cố đô Huế phải bước qua xác chết của tôi…". Sau khi Trưởng nhậm chức ở Vùng 1 chiến thuật, chính quyền Sài Gòn đã ưu ái tăng phái cho viên tướng này toàn bộ lực lượng tổng trừ bị của quân lực VNCH, đồng thời ông ta còn nhận được sự yểm trợ từ xa của Hạm đội 7 Hoa Kỳ đang đồn trú ngoài Thái Bình Dương.

Quân đội Sài Gòn tháo chạy khỏi vùng 1 chiến thuật.

Từ đầu năm 1975, Quân giải phóng mở Chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Ngô Quang Trưởng lúc này với tư cách là Tư lệnh Quân đoàn 1 - Vùng 1 chiến thuật đã liên tiếp nhận được những thông tin bại trận từ tiền phương gọi về. Tình thế của quân đội Sài Gòn ở vùng hỏa tuyến ngày một thêm bi đát, Ngô Quang Trưởng liên tục gọi điện về Sài Gòn để xin Nguyễn Văn Thiệu và đại tướng Cao Văn Viên cho quân đội tăng phái để hòng cầm cự địa bàn. Tuy nhiên, hỏa lực quá mạnh của Quân giải phóng đã nhanh chóng làm cho đám quan binh ở Vùng 1 chiến thuật sớm tan đàn xẻ nghé. Trưởng phải bay về Đà Nẵng để họp bàn, giao mặt trận Huế lại cho Tư lệnh phó là tướng Lâm Quang Thi chỉ huy. Thế nhưng, với một lực lượng binh sĩ đã hoàn toàn rệu rã về thể xác và suy sụp về tinh thần, đại đa số họ đều có khao khát rã ngũ để cùng với gia đình, vợ con, tìm đường tháo chạy.

Huế giải phóng, Trưởng cùng đám tàn binh của mình co cụm lại ở Đà Nẵng rồi tiếp tục khẩn thiết gọi điện cầu cứu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm bay ra Đà Nẵng để thị sát tình hình. Khi Trần Thiện Khiêm đến Đà Nẵng, Trưởng đã triệu tập một cuộc họp tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, thị trưởng, bộ tham mưu, và các trưởng phòng sở của hành chánh để nghe Trần Thiện Khiêm nói chuyện. Trước khi Trần Thiện Khiêm đến, Trưởng đã có cuộc gặp với những thành viên dự họp với đề nghị phải nói thẳng cho thủ tướng biết thực trạng ở Vùng 1 chiến thuật. Nhưng sau khi nghe  Trần Thiện Khiêm nói chuyện xong, trong phần tranh luận chẳng có ai phát biểu điều gì cả, chỉ duy nhất có đại tá Kỳ - Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị có ý kiến xin thủ tướng cho biết phải làm gì đối với số công chức đã tự ý rời nhiệm sở trong những ngày qua...? Nhưng, Trần Thiện Khiêm cũng không trả lời mà lại lảng sang một chuyện khác…

Ngày 24/3, quân lính Tiểu khu Quảng Tín rút chạy về Đà Nẵng, và cũng ngày này Tiểu khu Quảng Ngãi rút về Chu Lai. Ngày 26/3, Sư đoàn 2 rút ra Cù Lao Ré (đảo Lý Sơn). Thành phố Đà Nẵng lên cơn sốt hỗn loạn và tình trạng cướp bóc đã xảy ra tại kho gạo gần thương cảng Tiên Sa.    

Sáng ngày 28/3, Trưởng cho triệu tập các cấp chỉ huy để tìm biện pháp vãn hồi trật tự và tái trang bị cho những đơn vị đang có mặt trong thành phố. Nhưng kế hoạch không thi hành được vì không đủ quân số tác chiến, hầu như thời điểm này một số lớn sĩ quan đã bỏ phòng sở để đi lo chuyện gia đình, chỉ có Văn phòng Tư lệnh Vùng 1 chiến thuật là còn làm việc, còn tất cả phòng ban trong Bộ tư lệnh hầu như đã hoàn toàn tê liệt.

Sáng sớm ngày 29/3/1975, Quân giải phóng ồ ạt tiến quân vào Đà Nẵng. Những cánh quân của Sư 324B, Sư 325 đang hừng hực khí thế chiến thắng đã làm cho quan quân thuộc nhiều binh chủng của quân đội Sài Gòn kinh hồn bạt vía. Ngô Quang Trưởng cùng một vài thuộc cấp thân tín của ông ta như: đại tá Duệ (Tỉnh trưởng Thừa Thiên), đại tá Kỳ (Tỉnh trưởng Quảng Trị), trung tá Tuân (Phòng 3 - Quân đoàn 1)…í ới gọi nhau tìm đường chạy ra bãi biển để bơi ra tàu HQ 404 tìm đường tháo chạy. Theo lời kể của một viên sĩ quan quân đội Sài Gòn có mặt trên chuyến tàu hôm đó, sau khi được thuộc cấp dìu ra tàu, khi lên được trên tàu, Ngô Quang Trưởng đã ngất lịm đi vì mệt và đói. Khi chiếc tàu này đang trên đường di tản về Sài Gòn, tướng Ngô Quang Trưởng còn nhận được một lệnh khẩn của tổng thống Thiệu chỉ đạo hãy quay lại để "tái chiếm Đà Nẵng", nhưng với một thực tế quá đỗi bẽ bàng, tướng Trưởng đành phải phúc đáp cho Nguyễn Văn Thiệu rằng hiện tại ông ta không thể lấy ai để mà thi hành nhiệm vụ vì lính tráng thì đã mỗi người một nơi, cấp chỉ huy thì mạnh ai nấy thoát…

Về Sài Gòn, Ngô Quang Trưởng đi thẳng đến Tổng y viện Cộng Hòa để xin nhập viện vì bị khủng hoảng tinh thần. Sau khi ra viện, ông ta được bổ nhiệm vào Bộ Tư lệnh hành quân lưu động ở Bộ Tổng tham mưu. Tại đây, ông ta lại phải chứng kiến một hình ảnh rất đỗi đắng cay khi nhìn thấy những thuộc cấp của mình là phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (Tư lệnh hải quân Vùng 1 duyên hải) và chuẩn tướng Nguyễn Văn Khánh (Tư lệnh Sư đoàn 1 không quân) đang ngồi viết tường trình cùng với tướng Lâm Quang Thi đang chịu án quản thúc vì thất trận.

Những ngày cuối tháng 4/1975, một sĩ quan lục quân Mỹ từng làm việc với tướng Trưởng đã đến gặp gia đình ông ta và đề nghị di tản khỏi Sài Gòn trước khi Quân giải phóng từ mọi hướng đổ về làm chủ thành phố. Vợ con Ngô Quang Trưởng theo sự hướng dẫn của viên sĩ quan người Mỹ xuống tàu thủy để ra đi. Riêng Ngô Quang Trưởng, phải đến ngày 30/4/1975, mới được Nguyễn Cao Kỳ lái máy bay để đưa ra Hạm đội 7, rồi từ đó ông ta đến đảo Guam để đoàn tụ gia đình. Tại đây, gia đình Trưởng được đại tá Sauvageot đến để cho biết rằng, tướng Cushman (từng là cố vấn quân sự của Mỹ tại Vùng 4 chiến thuật) cử ông ta đến để đón gia đình Trưởng về cùng sinh sống với gia đình Cushman tại Trường chỉ huy tham mưu Leavenworth. Tại đây, với sự giới thiệu của Cushman, Trưởng và người con trai tên Diệp bắt đầu đi học nghề nông ở một nông trại cho đến lúc chuyển đến định cư tại Falls Church Virginia - miền Đông nước Mỹ.

Gia đình và những năm tháng lưu vong

Chuyện tình duyên của Ngô Quang Trưởng sau này được ông Nguyễn Tường Thiết (là anh họ của vợ ông Trưởng) thuật lại rằng: Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ XX, ở Sài Gòn người ta đã râm ran bàn tán về một chuyện tình tay ba giữa hai sĩ quan trẻ tuổi trong quân lực VNCH. Hai sĩ quan đó, một ở binh chủng không quân, một ở binh chủng nhảy dù, còn người đẹp đã làm cho hai trái tim kia cùng dậy sóng chính là cô con gái lớn của nhà văn Thạch Lam tên là Nguyễn Tường Nhung. Hai quân nhân cùng theo đuổi và yêu một cô gái trong những năm tháng chiến tranh âu cũng là chuyện thường tình. Điều đặc biệt ở đây hai sĩ quan trẻ tuổi này là đôi bạn chơi rất thân với nhau. Trong điều kiện chiến tranh, sống chết đối với những quân nhân tác chiến là chuyện có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Hai người này đã giao ước với nhau trong tình bạn là nếu người nào nằm xuống trước thì người còn lại sẽ nguyện suốt đời chăm sóc cho cô gái kia. Thế rồi, trong một chuyến bay, người sĩ quan không quân kia đã không may bị tử nạn. Từ đó, định mệnh đã đẩy đưa cô con gái lớn của một nhà văn danh tiếng thời Tự Lực Văn Đoàn gắn bó cuộc đời mình với viên sĩ quan của binh chủng nhảy dù có tên là Ngô Quang Trưởng. Ông Trưởng và bà Nhung lấy nhau có 4 người con và sống với nhau cho đến ngày ông Trưởng trút hơi thở cuối cùng lúc 3h sáng ngày 22/1/2007.

Những ngày dài sống lưu vong trên đất Mỹ, Ngô Quang Trưởng không giống những tướng tá của chế độ Sài Gòn trước đây là tham gia vào những cuộc hội họp hay bình luận về sự kiện giải phóng Sài Gòn hay phân tích những nguyên nhân bại trận của họ. Ông ta sống rất lặng lẽ trong nỗi trầm uất cay đắng của một viên tướng thua cuộc. Ai đó có cố gắng gặng hỏi một điều gì về một thời chiến cuộc, ông ta đều tảng lờ sang một câu chuyện khác. Có chăng, Ngô Quang Trưởng cũng chỉ ngậm ngùi bảo rằng "bại binh chi tướng bất khả ngôn dũng. Vong quốc chi đại phu bất khả ngôn trí", có nghĩa là ông ta cũng biết rõ thân phận của mình là một viên tướng bại trận thì không thể nói mình anh dũng. Một người phải bỏ xứ sở để ra đi tị nạn thì làm sao gọi là người có mưu lược được…

Ước nguyện cuối cùng của một viên tướng bại trận tha hương là được đưa tro cốt về cùng đất mẹ. Mùa hè năm 2008, bà Nguyễn Tường Nhung cùng những đứa con của mình đã làm theo di nguyện ấy, đưa tro cốt chồng, cha của mình về Việt Nam

Phan Bùi Bảo Thy
.
.