Truy tặng "Huân chương kháng chiến" cho cụ Lang Vấn:

Tiếng thơm còn mãi

Thứ Bảy, 25/06/2011, 22:30

Có những con người khi sinh ra đã phải gánh chịu bi kịch của thời đại và chịu một số mệnh thiệt thòi. Nhưng, dường như sức sống tiềm ẩn và đức lớn lao của con người đã cải số, ngay kể cả khi, người đã khuất núi thì tiếng thơm vẫn còn để lại mãi muôn đời...

Lúc sống vì người, thì khi mất người cũng vì mình. Lịch sử làm thay đổi số phận, nhưng lịch sử cũng hết sức công minh mà trả con người về đúng vị trí như vốn có. Câu chuyện về ông lang Vấn tên cúng cơm là Bùi Ngô Vấn (Ngô Quang Vấn) xã Cửu Cao, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên là một câu chuyện cảm động. 56 năm sau khi qua đời trong một vụ án oan, ông đã được Chủ tịch nước ký quyết định truy tặng "Huân chương Kháng chiến" vì đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Mộ của ông nằm ở rìa làng, bình dị như bao ngôi mộ khác, từ ngày ông mất do biến cố gia cảnh vào tháng 7/1955, cho đến nay đã hơn nửa thế kỷ. Cái chết oan khuất và câu chuyện về cuộc đời của ông lang nức tiếng trong vùng được mọi người yêu quý và kính trọng vẫn gọi bằng tên thân mật - ông lang Vấn - là một bi kịch buồn và đầy xót xa. Sau này, rất nhiều học trò của ông là chiến sĩ cách mạng bị tù đày trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở nhà tù Phú Quốc, Hỏa Lò, cùng với cán bộ Việt Minh trước đây được ông cưu mang, tá túc tại nhà đã viết những bức thư đầy tâm huyết để minh oan và làm chứng cho người thầy, cũng là ân nhân của mình.

Lần giở từng trang giấy viết tay từ những người học trò của ông, người lớn tuổi nhất đến nay cũng đã gần trăm tuổi, người được coi là trẻ nhất cũng đã vào độ tuổi xưa nay hiếm, ai cũng hướng đến ông với sự tôn nghiêm và kính trọng hết mực. Mỗi bức thư là một câu chuyện nhỏ, cảm động về người thầy. Hình bóng của ông lang Vấn vẫn lưu đậm trong ký ức của những học trò xưa dù rằng ông đã giã từ dương thế, để đi vào cõi vĩnh hằng từ rất lâu.

Ông sinh năm 1891, là con út trong một gia đình năm anh chị em, dòng dõi khoa bảng, nho gia nức tiếng trong vùng Văn Giang. Từ bé đã tỏ ra là một người có cốt cách, thông tuệ hơn người. Đến khi lên 16 tuổi, ông được cha mẹ gửi sang Từ Sơn, Bắc Ninh để học nghề bốc thuốc đông y của một danh y nổi tiếng. Nơi đây vốn là quê gốc của cụ, cũng là nôi cách mạng với nhiều bậc lão thành như Ngô Gia Tự…

Tuổi trẻ, chí lớn, lại đam mê và có nhiệt tâm, ông không ngừng học hỏi miệt mài đèn sách, cộng với khí chất trời ban, nên ông mau chóng hiểu biết sâu sắc về nghề đông y. Từ những vị thuốc Nam, thuốc Bắc, ông đã nghiền ngẫm và thử nghiệm, chế ra nhiều bài thuốc hữu hiệu để chữa bệnh cứu người. Năm 1910, khi mới có 19 tuổi, tên tuổi của lang Vấn đã nổi tiếng khắp vùng Văn Giang. Qua nhiều năm làm nghề chẩn bệnh, bốc thuốc, ông gặp không ít những số phận khốn cùng, những mảnh đời cơ cực, lam lũ của người dân nghèo, khi đi chữa bệnh mà không có nổi một cắc bạc, dường như tình thương cũng là một động lực lớn để ông dành mọi tâm huyết cứu chữa cho những thân phận bần hàn ấy. Với bệnh nhân nghèo, ông không lấy tiền, mà chữa trị rất chu đáo. Để người bệnh khỏi tủi thân, ông dùng ngôn từ dịu dàng và cử chỉ hòa nhã để yên lòng người bệnh.

Bằng tài của người thầy thuốc và bằng cái đức của người dòng dõi nho gia, chỉ trong một thời gian ngắn, bệnh nhân mắc bệnh nặng thì mau chóng thuyên giảm, người mắc bệnh nhẹ thì khỏi hẳn. Tiếng lành đồn xa, học trò khắp nơi đến theo ông xin học ngày một đông. Học trò được ông thu nhận, đã được ông tận tình chỉ dạy nghề thuốc, lại vừa được học chữ và học đạo lý làm người.

Lấy những câu răn trong từ điển y đức của Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác, ông vẫn nói với học trò của mình: "Thầy thuốc là nghề cao thượng, vì thế phải giữ khí tiết cho trong sạch. Đạo làm thuốc là một nhân thuật có nhiệm vụ giữ gìn tính mạng cho người ta, phải lo trước cái lo của người và vui sau cái vui của người. Chỉ lấy việc cứu người làm phận sự của mình mà không cần lợi kể công". Tâm có sáng thì người mới sang.

Chính cốt cách thanh tao từ trong ông lan tỏa tự nhiên đã làm cho học trò cảm phục. Thầy giỏi ắt có trò hay. Trong những học trò theo học ông, sau này có nhiều người thành danh ở nghề đông y vẫn không thôi nguôi ngoai, nhớ thương về người thầy của mình. Lương y Nguyễn Đức Chi, nguyên Chủ tịch Hội Đông y huyện Thuận Thành - Bắc Ninh đã viết: "Cụ nói đạo làm thuốc phải đạo đức, như câu thơ của Hải Thượng Lãn Ông quên mình cứu chữa người bệnh, ngoài ra tất cả đều là phù vân…".

Ông Phạm Huy Thành, nguyên là cán bộ y tế xã Cửu Cao, huyện Châu Giang, Hưng Yên nhớ lại: "Từ năm 1950 đến 1952, tôi là người địa phương được cụ lang Vấn truyền nghề Đông y. Cụ lang Vấn bị điếc nặng nhưng hiền lành, đức độ, là thầy thuốc nổi tiếng vùng Văn Giang. Cụ Vấn luôn dạy bảo các học trò phải ăn ở từ thiện, giúp người là một thứ của để dành, lấy đức làm đạo sống, không được làm điều ác để lấy phúc về sau…". Ông Phạm Văn Lạng là học trò út, ảnh hưởng tinh thần yêu nước rất nhiều từ người thầy của mình, sau này ông là cán bộ y tế xã Long Hưng, huyện Văn Giang được Nhà nước khen thưởng về thành tích trong kháng chiến chống Pháp.

Nếp sống nhân từ, đức độ của người thầy đã làm cho trò thêm yêu quý, kính trọng. Những năm tháng đó là đoạn đời đẹp được lưu giữ trong một miền ký ức sâu thẳm của cả thầy và trò.

Ông lang Vấn có người vợ thứ hai là Đào Thị Thìn, cán bộ hoạt động cách mạng từ năm 1939, đã bị địch bắt và tù đày ở nhà tù Hỏa Lò từ trước khi lấy ông vào năm 1940-1943. Hiện nay, tên của bà còn được khắc chữ ở bảng vàng tại nhà tù Hỏa Lò. Bà vốn là người phụ nữ nhan sắc nức tiếng vùng Kinh Bắc đồng thời là cán bộ cách mạng trung kiên nên hai vợ chồng ông rất tâm đầu ý hợp. Sau này, nhiều cán bộ lão thành cách mạng đã viết nhà ông lang Vấn nuôi giấu nhiều cán bộ cách mạng, và ông còn vận động nhiều người tham gia cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đi theo tiếng gọi của tình yêu đất nước, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, ông và gia đình đã hết lòng ủng hộ tiền của, thóc, vàng cho cách mạng.

Cuộc sống là những biến cố khôn lường, cơn sóng dữ dội của thời cuộc đôi khi nhấn chìm cả sinh mệnh bé nhỏ. Ông lang Vấn mất sau một năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, trong một án oan, hưởng dương 65 tuổi. Ông để lại hai người vợ và 7 người con. Bà cả sinh cho ông 5 người con gái. Bà hai sinh cho ông 2 người con trai. Khi ông mất, người con trai lớn 5 tuổi, người con trai út mới 3 tuổi. Biến cố của gia đình đã làm chao đảo cuộc sống của những con người bình dị. Cuộc sống khốn đốn, nặng nề đè lên vai người còn sống nhưng cuộc đời như một bức tranh buồn và đẹp, lặng lẽ trôi để rồi mở ra những trang mới.

Từ ngày ông mất, học trò như thành lệ mỗi năm hai lần đến thắp nhang cho thầy vào ngày giỗ và ngày tết. Cứ đều đặn như vậy, từ khi mái tóc của trò còn xanh, sức khỏe dồi dào cho đến khi thời gian vần vũ trôi, mỗi năm tóc trò cũng đã ngả màu, thêm sợi bạc, sức đã xuống, nhưng vẫn một mực thành kính, hiếu lễ với thầy.

Nỗi niềm của người vợ lúc nào cũng canh cánh thương nhớ, xót xa cho thân phận người chồng quá cố của mình. Năm 1999, bà Thìn vào tuổi 84 đã đích thân viết đơn gửi lên các cấp lãnh đạo đề nghị xin xét truy tặng thưởng cho chồng. Cùng lúc ấy, nhiều học trò ngày xưa của ông lang Vấn, người cao tuổi nhất gần 100, người thấp tuổi nhất cũng đã ngoài 60, đã viết những dòng đầy tâm huyết về người thầy của mình, tất cả đều chung một nỗi niềm mong được Hội đồng Thi đua khen thưởng Nhà nước khen thưởng chế độ cho ông Ngô Quang Vấn tức Bùi Ngô Vấn. Và, thật may, đây là một câu chuyện mà cái kết có hậu.

Ngày nhận được giấy truy tặng Huân chương Kháng chiến cho ông được coi là ngày vui chung cho toàn thể gia đình, chỉ tiếc rằng hai người vợ hiền của ông đã khuất núi. Bà Thìn mất năm 2008. Người con trai cả cũng mới mất cách đây 2 năm, gia đình chỉ còn lại 3 người con gái và người con trai út, ông Bùi Ngô Duyệt (tức Thuận) hiện là chuyên viên chính của Văn phòng UBND TP Hà Nội. Và nhiều học trò của ông vì tuổi cao sức yếu cũng đã thay phiên nhau ra đi, hiện nay còn lại 2 người còn sống để nhận tin vui.

Từ ngày ông lang Vấn ra đi cho đến nay là khoảng thời gian khá dài. Ông yên nghỉ trên một bãi đất trong làng với cảnh quan quen thuộc, với bờ tre ruộng mật, quê hương nơi ông sinh ra và lớn lên rồi trưởng thành. Đất mẹ đã bao bọc ông, đưa ông vào giấc ngủ dài vĩnh viễn, và cũng chính đất mẹ lại dang tay đón những người thân của ông lần lượt về đây quy tụ với ông. Ngôi mộ trải qua bao dãi dầu mưa nắng và lẳng lặng chứng kiến sự thăng trầm đổi thay của dân tộc. Tôi tin ở trong lòng đất sâu, ông sẽ thanh thản và mỉm cười…

Số phận bắt ông phải chịu trầm luân của kiếp khổ ải oan khiên, thì số phận lại một lần nữa làm cho ông hồi sinh, hạnh phúc đi lên từ khổ đau, mất mát. Cuộc sống vốn dĩ công bằng, những người nhân đức  dù có thể nhất thời gặp nạn nhưng quy luật của muôn đời cuối cùng vẫn được tôn vinh xứng đáng

Trần Mỹ Hiền
.
.