Vũ trụ đang bị "Quân sự hoá"?

Thứ Sáu, 21/11/2008, 09:00

Cho đến nay đã có hơn 130 nước tham gia các hoạt động trên vũ trụ. Hầu hết các nước, nhất là các nước lớn, các nước có khả năng khám phá vũ trụ đều tuyên bố không theo đuổi mục tiêu quân sự hóa vũ trụ. Tuy nhiên, trên thực tế các hoạt động của họ trong những thập niên gần đây lại gây lo ngại sâu sắc cho nhân loại, bằng việc gia tăng các hoạt động được gọi là “bảo vệ các vệ tinh và phi thuyền của họ trong không gian vũ trụ”; từ chối không tham gia vào hiệp ước cấm quân sự hóa vũ trụ...

Tình báo vũ trụ

Trong 50 năm phát triển công nghệ vũ trụ, ứng dụng quan trọng nhất là lĩnh vực quân sự và tình báo. Năm 1958, Chương trình trinh sát bằng vệ tinh có tên là Corona của Mỹ với sự ra đời hàng loạt vệ tinh và các phương tiện vũ trụ trinh sát ảnh có độ phân giải cao. Cuối những năm 70 thế kỷ XX, Mỹ cho ra đời các vệ tinh trinh sát KH-11, các camera của chúng dùng các thiết bị ghép đôi tải trọng. Ngoài ưu thế không bao giờ hết phim, một hệ như vậy có thể truyền ảnh theo thời gian thực. Độ phân giải quang học đủ tinh vi để phân biệt kiểu ôtô này với kiểu ôtô khác, trong phạm vi 11cm. Trong những năm 80, Mỹ bắt đầu cho radar có khẩu độ tổng hợp bay vào vũ trụ, đặt trên cả vệ tinh lẫn tàu con thoi.

Từ những năm 70, Mỹ phóng các vệ tinh tình báo tín hiệu địa đồng bộ để nghe trộm điện tử. Loạt đầu mang mật danh “Rhyolite”, gồm 3 vệ tinh lớn Magnum mang các ăngten khổng lồ được triển khai theo các tàu con thoi. Dữ liệu mà vệ tinh tình báo tín hiệu thu thập được chuyển đến Cơ quan An ninh quốc gia để phân tích. Ở Nga, các vệ tinh tương tự được gọi là Eorsat và Rorsat cũng được đưa vào hoạt động.

Một ứng dụng quan trọng khác của tàu vũ trụ phát triển và cảnh báo sớm các vụ phóng tên lửa. Các nước phát triển đặc biệt quan tâm đến vệ tinh dẫn đường (Navasts) để định vị chính xác hạm tàu, nhất là cung cấp thông tin cho tên lửa hạt nhân của tàu ngầm. Cho đến nay, hệ GPS được sử dụng cho cả nhu cầu quân sự và dân sự. Hệ thống bao gồm 24 vệ tinh dẫn đường và xác định thời điểm cung cấp dịch vụ miễn phí, thông qua đó, người sử dụng máy thu trên bộ có thể xác định vị trí của họ ở bất cứ nơi nào trên hành tinh trong phạm vi 100m cho nhu cầu dân dụng và 22m cho nhu cầu quân sự.

Cùng công dụng, Liên Xô đã vận hành hệ thống Glonass, hiện nay Nga cũng đang có chủ trương xây dựng lại chùm vệ tinh dẫn đường thế hệ mới. Nhiều nước còn sử dụng rộng rãi các phương tiện vũ trụ để lập bản đồ chi tiết. Dữ liệu được sử dụng cho nhiều loại phương tiện, lực lượng khác nhau như máy bay không người lái, tên lửa hành trình...

Tương tự như đối với dẫn đường, quân đội nhiều nước đã ứng dụng vệ tinh truyền thông trên biển. Quân đội Mỹ có vệ tinh truyền thông rất sớm và  còn ký hợp đồng thuê vệ tinh truyền thông thương mại để phục vụ cho nhu cầu quân sự. Công nghệ vệ tinh dành riêng cho quân sự đã đạt đỉnh cao với vệ tinh Milstar, là các vệ tinh địa đồng bộ vững bền trước bức xạ được thiết kế để cung cấp truyền thông an toàn ngay cả trong trường hợp có xung đột hạt nhân.

Những ý tưởng và tham vọng về vũ trụ

Từ giữa những năm 70, với việc các phương tiện vũ trụ có tầm quan trọng ngày càng tăng đối với an ninh quốc gia, các chuyên gia quân sự bắt đầu có tham vọng bảo vệ phương tiện của mình và ngăn chặn đối phương tiếp cận. Điều gây lo ngại nhất là các phương tiện ứng dụng công nghệ laser và chùm hạt tích điện, là những công nghệ có thể cho phép dễ dàng tiêu diệt các loại phương tiện quân sự trên mặt đất, trên không và cả trên vũ trụ.

Tháng 3/1983, Tổng thống Mỹ lúc đó là ông R.Reagan đã đề xướng “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” (SDI) mang mật danh khá hoa mỹ là “Chiến tranh giữa các vì sao”, mục đích là trả đũa tức khắc để răn đe Liên Xô tấn công, thông qua đánh chặn và tiêu diệt các tên lửa đường đạn chiến lược trước khi chúng bay tới lãnh thổ Mỹ hoặc đồng minh của Mỹ.  Ý tưởng khai thác phòng thủ nhiều tầng, nhiều  lớp, gồm các phương tiện đặt trên bộ, trên không, trên biển và trên vũ trụ. Trong các thành phần vũ trụ bao gồm cả vũ khí lazer, vũ khí chùm hạt, xenxơ và vệ tinh, được ví là những “viên cuội thông minh” dùng phá hủy tên lửa đối phương bằng cách cho va chạm với chúng khi chúng bay trong vũ trụ... Tuy nhiên, do nhiều yếu tố bất khả thi mà chương trình SDI tiêu phí hàng chục tỉ USD đã không thực hiện được. Tuy nhiên, ngày nay nước Mỹ đã và đang triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia (NMD) và hệ thống phòng thủ chiến trường (TMD) có sự điều khiển từ các phương tiện hoạt động trên vũ trụ.

Sự lo ngại của cộng đồng quốc tế

Ngày nay, thế giới càng lo ngại hơn về việc bảo đảm an toàn cho các phương tiện vũ trụ. Với mức đầu tư không nhiều, các nước phát triển hoàn toàn có thể hủy bỏ một số vệ tinh như Trung Quốc cuối năm 2007 và Mỹ đầu năm 2008 đã thực hiện, đủ để tạo ra những lỗ thủng trong “cái ô hạt nhân”.

Như vậy, “quân sự hóa vũ trụ” là một khái niệm rất rộng từ các phương tiện tình báo bí mật đến vệ tinh trinh sát, phương tiện phóng; vệ tinh truyền thông, thương mại, khí tượng... phục vụ cho nhu cầu quân sự. Vũ trụ có thể  trở thành “trận chiến trên cao”, một lợi thế mà các nước, nhất là các nước phát triển và một số nước đang phát triển đua nhau tìm kiếm, “góp phần” làm cho thế giới ít an toàn hơn.

Theo dự báo của các nhà nghiên cứu quân sự có uy tín thì đến năm 2010 số lượng các phương tiện vũ trụ thuộc hệ thống vũ khí có độ chính xác cao của các quốc gia đứng đầu thế giới có thể đạt 30-50 ngàn và đến năm 2020 con số đó là 70-90 ngàn. Không phải ngẫu nhiên mà Mỹ đã chi ngân sách cho vũ trụ quân sự ngang bằng với chi cho phần cứng của ngân sách hoạt động vũ trụ dân dụng, thương mại, Mỹ dự chi cho năm 2009 là 700 triệu USD để bảo đảm cho hơn 500 tên lửa của họ.

Tư lệnh Lực lượng phòng không Nga, Đại tướng Alexcandr Zelin cũng cho rằng: “Những mối đe dọa đối với Cộng hòa Liên bang Nga là từ khoảng không vũ trụ”. Trong khuôn khổ chương trình vũ trang đến năm 2015, Bộ Quốc phòng Nga đã đưa ra chương trình chế tạo hệ thống vũ khí tên lửa phòng không tổ hợp đa mục tiêu, theo đó hợp nhất hóa hoạt động phòng không và phòng không vũ trụ; hợp nhất tất cả các lực lượng, các phương tiện của lực lượng phòng không, không quân, tên lửa vũ trụ dưới sự chỉ huy của lực lượng phòng không.

Mỹ, Nga là hai nước có tiềm năng và thực lực khám phá, khai thác vũ trụ lớn nhất hành tinh, với việc đồng sở hữu Trạm quỹ đạo quốc tế ISS, hai nước có thể đóng vai trò định hướng quan trọng có thể làm tăng lên hay giảm đi nguy cơ quân sự hóa vũ trụ. Tuy nhiên, trong khuôn khổ chính sách hiện hành mà hai nước đang theo đuổi thì sự lo ngại của cộng đồng quốc tế về nguy cơ  quân sự hóa vũ trụ là có cơ sở

Nguyễn Nhâm (tổng hợp)
.
.