Nhật hoàng Akihito mong muốn thoái vị:

Phượng hoàng mãi xếp cánh trong lồng son

Thứ Tư, 17/08/2016, 10:05
Với những nhà quân chủ còn lại trong thế giới hiện đại, tuyên bố thoái vị, nhường ngôi hay mong muốn rũ bỏ mọi định chế hoàng gia đã ràng buộc gần trọn cuộc đời "hữu danh vô thực" là một động thái hoàn toàn bình thường, thì với Nhật hoàng Akihito, năm nay 82 tuổi, sau bài phát biểu phát trên truyền hình Nhật Bản ngày 8-8 vừa qua bày tỏ ý muốn thoái vị vì tuổi cao sức yếu, ông chưa thể dễ dàng trao lại vương quyền cho hoàng thái tử vì luật pháp Nhật Bản hiện không có quy định về việc thoái vị!

Hơn nữa, Nhật hoàng Akihito cũng không thể công khai yêu cầu sửa đổi luật pháp vì Hiến pháp Nhật Bản từ năm 1947 "cấm Thiên hoàng can thiệp vào chính trị". Đây là hệ quả của lịch sử đất nước Mặt trời mọc được viết ra từ cách đây gần 70 năm.

Đai vàng số phận

Tinh thần chủ đạo thể hiện trong Hiến pháp Nhật Bản năm 1889 là mọi quyền hành nằm trong tay Thiên hoàng căn cứ trên thần tích "Hoàng đế Nhật Bản thuộc dòng dõi của Thiên Chiếu Đại Thần cai quản nước Nhật từ ngàn đời".

Nhật hoàng Akihito và Hoàng hậu Michiko.

Từ nguồn gốc linh thiêng này, người dân Nhật Bản xem Thiên hoàng như một vị thần linh. Thiên hoàng Chiêu Hòa (tên thật là Hirohito) lên ngôi từ năm 1926 đến năm 1989, người có thời gian trị vì dài hơn bất cứ một Thiên hoàng nào khác trong lịch sử Nhật Bản, là vị vua cuối cùng ủng hộ sự thần thánh của Thiên hoàng.

Takeshi Hara, chuyên gia về hoàng tộc Nhật Bản, cho biết: "Trong lịch sử Nhật Bản, hơn một nửa số quốc vương đã rời ngai vàng, thường tịnh thân tu dưỡng tại các thiền viện Phật giáo. Chỉ đến thế kỷ XIX, khi giới lãnh đạo Nhật Bản khởi động phong trào thần thánh hóa Thiên hoàng thì việc thoái vị mới trở thành không thể". Và khi ấn định sự trường tồn vĩnh hằng trên ngôi cao, bậc tiên đế đã không hề nghĩ rằng, mai này khi thời thế đổi thay, hậu duệ của mình sẽ không thoát khỏi đai vàng của số phận.

Trong thời kỳ đầu trị vì của Thiên hoàng Chiêu Hòa, quân đội Hoàng gia Nhật Bản đã giành được ảnh hưởng chính trị đáng kể. Từ năm 1931-1932, đạo quân Quan Đông (đơn vị đồn trú ở vùng Mãn Châu của Trung Quốc) đã chiếm Mãn Châu Quốc mà không cần sự chấp thuận của chính phủ Nhật Bản.

Về mặt cá nhân, Thiên hoàng thỉnh thoảng vẫn lộ ra vẻ không hài lòng về quyền lực ngày càng bành trướng của quân đội. Như vào tháng 2-1936, ông đã hạ lệnh thanh trừng các sĩ quan quân đội cấp tiến đang nổi dậy chống chính phủ dân sự ở Tokyo. Dù vậy, Thiên hoàng Chiêu Hòa vẫn ít có hành động ngăn chặn việc quân đội Nhật Bản đang dần tiến đến một cuộc chiến toàn diện với Trung Quốc xảy ra năm 1937.

Hình ảnh Thiên hoàng mặc quân phục, ngồi trên lưng ngựa theo dõi diễn tập quân sự hoặc duyệt quân càng hun đúc thêm tinh thần chiến tranh của quân đội Nhật, và kết cục tất yếu là tháng 12-1941, các máy bay chiến đấu của quân Nhật bất ngờ tấn công hạm đội hải quân Mỹ đang trú đóng tại Trận Trân Châu Cảng, Hawaii, chính thức đánh dấu việc Nhật Bản tham gia vào Thế chiến thứ II. Vẫn với tính cách dù không hào hứng với quyết định tham chiến của giới quân phiệt, nhưng Thiên hoàng Chiêu Hòa không thể không tỏ ra hài lòng trước hàng loạt các chiến công của quân đội Nhật Bản và cho Bộ trưởng Chiến tranh, tướng Tojo Hideki triệu kiến mình ngày càng nhiều. 

Đến đầu mùa hè năm 1945, Thế chiến thứ II đã hạ màn ở Châu Âu. Chính phủ Nhật Bản bị chia rẽ sâu sắc giữa các lãnh đạo quân đội, hải quân và các quan chức dân sự, những người muốn thương lượng hòa bình với quân Đồng minh. 

Thiên hoàng có vẻ như nghiêng về phía phe chủ hòa nhưng ông không thể đứng ra giải quyết bế tắc giữa phe chủ chiến và phe chủ hòa cho đến giữa tháng 8-1945, sau khi Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống các thành phố Hiroshima, Nagasaki và Liên Xô bắt đầu tuyên chiến với Nhật Bản. Thủ tướng Nhật Bản Suzuki Kantaro sau khi hỏi ý kiến Thiên hoàng Chiêu Hòa liệu Nhật có nên tiếp tục "chiến đấu vì danh dự", ông đã quyết định chấp nhận yêu cầu của Đồng minh "đầu hàng vô điều kiện".

Tướng Douglas MacArthur ký văn bản chấp nhận Nhật đầu hàng không điều kiện trên chiến hạm USS Missouri ngày 2-9-1945.

Hội nghị Potsdam được tổ chức ở Cecilienhof, cung điện của thái tử Wilhelm Hohenzollern tại Potsdam, Đức từ ngày 16-7 đến 2-8-1945. 3 nguyên thủ đại diện quân Đồng minh là Nguyên soái Liên Xô Joseph Stalin, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Mỹ Harry S Truman đã nhóm họp để thống nhất việc thành lập trật tự thế giới mới thời hậu chiến.

Trong tuyên bố Potsdam ngày 26-7-1945 buộc Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện có đoạn: "Nhà nước Nhật Bản phải gỡ bỏ mọi cản trở các xu hướng dân chủ trong nhân dân Nhật. Tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do tư tưởng cũng như sự tôn trọng nhân quyền phải được thiết lập". Ngày 15-8-1945 lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Nhật được nghe tiếng nói của "biểu tượng thần linh" Thiên hoàng trên đài truyền thanh phát đi lời tuyên bố nước Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện.

Tổng thống Mỹ Harry Truman đã bổ nhiệm Thống chế Douglas MacArthur làm Tư lệnh tối cao của Các Lực lượng Đồng minh (Supreme Commander of Allied Powers). Quân đội Mỹ chiếm đóng toàn bộ Nhật Bản và vùng trước kia thuộc Nhật ở Micronesia.

Ngay từ Hội nghị Potsdam, tướng Douglas MacArthur đã nêu ý kiến: Để đạt mục đích dân chủ hóa nước Nhật thì nhất thiết phải sửa đổi Hiến pháp Minh Trị ban hành từ năm 1889. Khi nói câu đó, ông không ngờ rằng trách nhiệm này cuối cùng đã được trao vào tay ông, và trên thực tế, chỉ sau đó vài tháng, văn phòng của ông đã viết ra một bản hiến pháp hoàn toàn mới cho Nhật Bản hiệu lực cho đến ngày nay.

Hiến pháp năm 1946 của Nhật Bản được lập nên từ… lỗi của người phiên dịch

Ngày 4-10-1945, Tư lệnh tối cao MacArthur có một cuộc họp với một số thành viên nội các Nhật Bản. Lúc buổi họp sắp kết thúc, một quan chức cao cấp Nhật hỏi liệu Tư lệnh Tối cao có chỉ dẫn cụ thể gì để kiến thiết nước Nhật thời hậu chiến. Trong khi dịch câu trả lời của MacArthur, người phiên dịch đã dịch sai từ "tái thiết" (reconstruction) thành "hiến pháp" (constitution). Vì vậy, các quan chức Nhật Bản khi ra về cứ đinh ninh rằng Tư lệnh Tối cao yêu cầu phía Nhật "phải viết Hiến pháp mới".

Đầu tháng 2-1946 phía Nhật Bản viết ra một dự thảo hiến pháp, nhưng MacArthur không chấp nhận, coi đó chẳng qua chỉ là một thứ "bình cũ rượu pha" của Hiến pháp Minh Trị. Cuối cùng MacArthur đã ra lệnh cho văn phòng của mình tự thảo ra Hiến pháp mới cho Nhật Bản sao cho kịp xong trước phiên họp ngày 26-2-1946 của quân Đồng minh bởi ông không muốn các nước Đồng minh khác nhúng tay vào nội tình Nhật Bản.

Thừa lệnh MacArthur, thiếu tướng kiêm luật sư Courtney Whitney  đã thành lập một hội đồng gồm 25 người phải thảo ra hiến pháp mới của Nhật Bản trong vòng một tuần. Ba người trực tiếp chấp bút cho bản dự thảo hiến pháp này là thiếu tướng Whitney, trung tá kiêm luật sư Milo Rowell và nữ thông dịch viên Beate Sirota Gordon năm đó mới 22 tuổi. Beate Sirota Gordon là người gốc Do Thái, con gái độc nhất của giáo sư, danh cầm piano Leo Sirota (1885-1965).

Ảnh chụp bà Beate Sirota Gordon năm 1946.

Bà đã sống và học tại Tokyo 10 năm (từ năm 1929-1939) khi cha bà được mời sang giảng dạy tại Nhạc viện Hoàng gia Nhật. Năm 1939, bà sang Mỹ học và năm 1943 tốt nghiệp cử nhân ngôn ngữ hiện đại. Trong Thế chiến thứ II, do mất liên lạc với cha mẹ ở Nhật nên ngay sau khi chiến tranh vừa kết thúc, bà đã lên đường sang Nhật tìm gia đình. Đến Tokyo vào mùa Giáng sinh năm 1945, bà là người phụ nữ ngoại quốc thường dân đầu tiên đặt chân tới nước Nhật thời hậu chiến.

Thông thạo 6 ngôn ngữ Nhật, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Nga, bà được thuê làm phiên dịch cho tổng hành dinh của tướng MacArthur. Bà Gordon kể lại rằng, thời gian ấy hàng ngày bà lái xe jeep phóng tới các thư viện tiêu điều ở Tokyo để mượn các bản hiến pháp của các nước đem về cho hội đồng nghiên cứu. Mỗi một chương sau khi viết xong đều được các thành viên khác của hội đồng tham gia thảo luận và đóng góp ý kiến.

Sau một tuần gần như thức thâu đêm, hội đồng dự thảo hiến pháp của tướng MacArthur đã viết ra một văn kiện hoàn toàn mới và tiến bộ cho nước Nhật. Trong bản hiến pháp này, Nhật hoàng được coi là biểu tượng của nhà nước và sự đoàn kết toàn dân, song bị tước bỏ mọi thực quyền. Mọi phát ngôn, hành động của Nhật hoàng liên quan tới nhà nước phải được sự chấp thuận của nội các chính phủ do thủ tướng đứng đầu. Một cấu trúc lập pháp quốc hội lưỡng viện được thành lập.

Trừ hoàng gia Nhật, mọi quyền lợi của các vương hầu khanh tướng bị bãi bỏ hoàn toàn. Đặc biệt nhất là Chương II; chỉ vẻn vẹn có một điều khoản- Điều 9- chỉ rõ nhân dân Nhật Bản "vĩnh viễn từ bỏ chiến tranh khỏi chủ quyền của quốc gia, vĩnh viễn không sử dụng vũ lực hay đe dọa bằng vũ lực khi giải quyết các tranh chấp quốc tế". Chú dẫn tại đây còn ghi rõ: Để bảo đảm thực thi điều khoản này, không bao giờ được duy trì lục quân, hải quân, và không quân cũng như tiềm năng chiến tranh khác. Quyền tham chiến của quốc gia sẽ không được thừa nhận.

Điều khoản này đã có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng đến sự phát triển của nước Nhật sau chiến tranh. Riêng về phần mình, bà Beate Sirota Gordon đã thêm điều khoản 14 và 24 về quyền bình đẳng của con người và bình đẳng nam nữ trong hôn nhân. Như điều 24 có đoạn: "Hôn nhân phải dựa trên sự đồng ý của cả hai giới, và hợp tác trên cơ sở quyền bình đẳng của vợ và chồng… các vấn đề khác liên quan tới hôn nhân và gia đình, pháp luật phải được thực thi trên quan điểm tôn trọng phẩm giá và quyền bình đẳng giới tính". Đây là lần đầu tiên trong lịch sử phụ nữ Nhật được hưởng những quyền như vậy.

Sau những buổi bàn thảo quyết liệt, phía Nhật Bản cuối cùng đã chấp nhận dự thảo hiến pháp do phía Mỹ soạn. Tướng Whitney còn nói rằng, nếu nội các Nhật không có khả năng đưa ra một quyết định thích hợp, tướng MacActhur sẽ đem bản dự thảo này ra trưng cầu dân ý. Thiên hoàng Hirohito tuy không còn quyền hành, đã viết thư trả lời chính thức ủng hộ bản hiến pháp mới. Mùa thu năm 1946, đại đa số nhân dân Nhật Bản đã bỏ phiếu ủng hộ các đại biểu tán thành bản hiến pháp mới.

Ngày 3-11-1946, Thiên hoàng chính thức công bố hiến pháp mới trước nghị viện. Đúng 6 tháng sau, bản hiến pháp chính thức có hiệu lực. Từ đó tại Nhật Bản, ngày 3-5 hàng năm trở thành ngày nghỉ lễ có tên Ngày Hiến pháp. Thiên hoàng Chiêu Hòa và các cố vấn của mình sợ rằng ông có thể bị xét xử về tội ác chiến tranh, đã cố né tránh các mối liên hệ của ông với giới lãnh đạo quân sự thời chiến.

Nhưng tướng MacArthur đã sớm nhận ra việc duy trì ngôi vị của Nhật hoàng là biểu tượng của sự ổn định và hòa hợp có giá trị đối với dân Nhật nên ông đảm bảo Thiên hoàng Chiêu Hòa sẽ không bị truy tố ở phiên tòa xét xử tội phạm chiến tranh bắt đầu năm 1946.

Lịch sử đánh giá công lao của Thống chế MacArthur trong việc tái thiết nước Nhật hậu chiến là "đặc biệt xuất sắc". Riêng bà B. Gordon được Hoàng gia Nhật Bản trao Huân chương Thụy Bảo vào năm 1998 và được nhiều phụ nữ Nhật Bản coi là nữ anh hùng. Bà đã qua đời năm 2012.

Trở lại với mong muốn thoái vị của Nhật hoàng Akihito, Thủ tướng Shinzo Abe cho biết chính phủ sẽ xem xét nghiêm túc bài phát biểu của Nhật hoàng. Tuy nhiên, việc chính phủ sửa đổi luật để đưa ra quy định về việc truyền ngôi đòi hỏi vấn đề thời gian và sẽ không tránh khỏi những tranh cãi, nhưng nếu chính phủ kéo dài thời gian thực hiện mong muốn của Nhật hoàng, điều này có thể khiến đại bộ phận người dân Nhật bất bình vì cho đến nay, họ luôn nói về Nhật hoàng với lòng tôn kính nên không thể trói buộc ông như một con phượng hoàng già yếu phải rũ cánh trong lồng son!

Mạnh Quân (tổng hợp)
.
.