Nam Á lao đao trong đại dịch

Thứ Sáu, 15/05/2020, 12:54
Tại các quốc gia Nam Á, đại dịch COVID-19 lan rộng có thể ảnh hưởng đến hơn 1,9 tỷ người (chiếm gần 1/4 dân số thế giới). Do có những điểm yếu trong hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc gia, cuộc chiến chống đại dịch ở những nước này gặp nhiều khó khăn.

Thiệt hại kinh tế được cho là sẽ gia tăng mức độ nghèo đói và mất bình đẳng, cũng như có khả năng làm trầm trọng thêm những xung đột hiện có.

Hệ thống chăm sóc sức khỏe của các quốc gia Nam Á đa phần trong tình trạng thiếu hụt đáng kể. Trong khi Sri Lanka dành khoảng 4% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cho hệ thống y tế thì Ấn Độ, một quốc gia lớn trong khu vực, lại chỉ đầu tư 1,28% GDP vào hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng trong năm 2018-2019.

Số lượng giường bệnh tính trên 1.000 dân ở Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh lần lượt là 7,6 và 8 chiếc, thấp hơn so với nhiêu quốc gia khác. Hầu hết các nước đều trong tình trạng thiếu thiết bị hỗ trợ hô hấp và đồ dùng bảo hộ cho các chuyên gia y tế.

Dịch COVID-19 đang tấn công nhóm dân số nghèo ở các quốc gia Nam Á.

Tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ giảm xuống dưới mức 5% vào cuối năm 2019. Không chỉ Ấn Độ và Pakistan (vốn là 2 nền kinh tế lớn nhất trong khu vực) mà Bangladesh và Sri Lanka cũng đã ở trong thời kỳ suy thoái kinh tế trước khủng hoảng. Đại dịch COVID-19 khiến cho khủng hoảng càng trở nên trầm trọng hơn. Các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã điều chỉnh đáng kể mức dự báo tăng trưởng của họ đối với các quốc gia trong khu vực Nam Á.

Việc các ngành công nghiệp chính như ngành dệt may ở Bangladesh hay ngành du lịch ở Sri Lanka và Maldives đột ngột ngừng hoạt động sẽ đẩy nhanh tốc độ suy thoái kinh tế. WB dự đoán năm 2020 có thể là thời điểm kinh doanh tồi tệ nhất đối với khu vực Nam Á trong hơn 40 năm qua.

Đại dịch COVID-19 đang tấn công các nhóm dân số nghèo. Ở Ấn Độ, vào năm 2019, tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên mức cao nhất trong nhiều thập niên. Ngoài ra, khoảng 90% lao động trong nước (tương đương 450 triệu người) làm việc trong khu vực phi chính thức không được tham gia mạng lưới an sinh xã hội. Khi các quốc gia đóng cửa biên giới, nhiều lao động nhập cư đã mắc kẹt và việc thiếu nguồn cung cấp đã trở thành một vấn đề lớn hơn đối với họ.

Cuộc khủng hoảng có thể tác động đáng kể đến nông nghiệp vì đây vẫn là lĩnh vực chủ yếu cung cấp việc làm cho lao động ở nhiều thành phố và thường phụ thuộc vào lao động thời vụ hoặc lao động nhập cư. Nếu những biện pháp hạn chế ban đầu vẫn tiếp tục được mở rộng thì người lao động nhập cư sẽ không chỉ mất đi thu nhập mà trong nhiều trường hợp, họ còn có thể chịu ảnh hưởng của tình trạng mất mùa và nạn đói ở địa phương.

Việc nền kinh tế dừng lại đột ngột sẽ kéo theo nhiều vấn đề liên quan như thất nghiệp gia tăng, nghèo đói và thiếu hụt nguồn cung. Điều này đã đẩy các quốc gia trong khu vực lâm vào hoàn cảnh thực sự khó khăn. Đôi khi đó còn là sự lựa chọn giữa số người chết vì đại dịch COVID-19 hay các biện pháp ngăn chặn dịch.

Thiệt hại kinh tế được cho là sẽ làm trầm trọng thêm những xung đột hiện có.

Các quốc gia đã ứng phó với tình huống khẩn cấp bằng các gói viện trợ quốc gia. Chính phủ Ấn Độ ban đầu đã cung cấp 22 tỷ USD để giảm bớt thiệt hại về kinh tế và người trong thời gian ngắn, trong khi các quốc gia khác cũng khởi xướng các chương trình viện trợ của chính phủ. Một trong số ít những dấu hiệu mang lại hy vọng ở Ấn Độ là nhiều gia đình nghèo hiện nay cũng đã có tài khoản ngân hàng để chính phủ có thể chuyển trực tiếp phúc lợi xã hội của nhà nước.

Năm 2018, chính phủ của Thủ tướng Narendra Modi đã đưa ra một chương trình bảo hiểm y tế mới cho các nhóm dân số nghèo. Mặc dù khoảng 2/3 các gia đình Ấn Độ được hưởng viện trợ lương thực từ hệ thống phân phối công cộng nhưng khoảng vài triệu người không được hưởng chương trình bảo hiểm.

Tại Pakistan, chính phủ của Thủ tướng Imran Khan ban đầu đã cung cấp 8 tỷ USD để đối phó khẩn cấp với đại dịch. Vì Pakistan hiện đang trong tình trạng lạm phát 2 con số và IMF mãi đến tháng 11-2019 mới cấp gói cứu trợ để ổn định nền kinh tế nên nước này khó có thể nhận thêm viện trợ quốc tế mới.

Tình hình càng trở nên trầm trọng hơn trước thực tế các quốc gia đang mất dần các nguồn tài trợ quan trọng từ bên ngoài. Ấn Độ là quốc gia có lượng kiều hối lớn nhất từ lao động nước ngoài. Chỉ riêng ở Vùng Vịnh, ước tính có khoảng 6-7 triệu lao đồng từ Ấn Độ. Đối với Bangladesh, Nepal và Sri Lanka, lượng kiều hối từ lao động nước ngoài là nguồn hỗ trợ kinh tế quan trọng. Bởi tình hình kinh tế của các nước khác nhau nên họ sẽ theo đuổi các chiến lược khác nhau để đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế.

Bangladesh, Maldives, Nepal, Pakistan và Sri Lanka có khả năng sẽ đẩy nhanh tiến trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Họ không chỉ lo lắng cho các ngành công nghiệp quan trọng nhất như dệt may, du lịch mà còn muốn tái xuất khẩu lao động ra nước ngoài trong thời gian sớm nhất có thể. Trong khi đó, ở Ấn Độ, cuộc khủng hoảng có thể củng cố xu hướng bảo hộ đang thịnh hành. Chính quyền New Delhi đã tăng thuế quan trong những năm gần đây.

Tháng 11-2019, nước này đã quyết định rút khỏi Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Ấn Độ cho rằng làm như thế sẽ tạo thuận lợi cho nước này thúc đẩy thương mại với Trung Quốc và các khu vực kinh tế khác. Tuy nhiên, với sự ảnh hưởng trực tiếp và lan rộng của đại dịch lần này, khó có thể nói chỉ một hoặc vài chính sách đơn lẻ nào đó của một quốc gia mà có thể giải quyết được vấn đề, cho dù đó có là nền kinh tế mạnh đi chăng nữa.

Ngọc Lan (Tổng hợp)
.
.