Khi “chúa sơn lâm” bên bờ vực tuyệt chủng

Chủ Nhật, 28/02/2010, 23:35
Trong khi đang không ít người lùng tìm xương hổ về để nấu cao; trong lúc cả thế giới lên tiếng bảo vệ cho loài vật được coi là “oai linh rừng thẳm” này; trong lúc các nhà nghiên cứu, bảo vệ động vật hoang dã ngày đêm lo tìm cách cứu loài hổ khỏi sự tuyệt chủng, thì ở tỉnh Bình Dương, đã tồn tại câu chuyện về hổ đẻ. Loài hổ nhà, có thể phát triển, không hiểu sao lại nằm ngoài những dự án bảo tồn!?

Hổ - con đường diệt vong

Ông Trịnh Lê Nguyên, Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên cho biết, cách đây 10 năm, theo số liệu khảo sát của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên (WWF), số hổ ngoài tự nhiên ở Việt Nam là 100 con. Thế nhưng, theo ông Nguyên, hiện nay, số lượng hổ hoang dã chắc chắn không còn đủ 100 con.

Từ thập niên 60 của thế kỷ XX trở về trước, hổ phân bố ở khắp các vùng rừng núi, thậm chí cả ở vùng trung du và hải đảo. Những nơi nổi tiếng nhiều hổ như Ba Chẽ (Quảng Ninh), Quản Bạ (Hà Giang), Dốc Cun (Hòa Bình), Mường Nhé (Lai Châu), Ba Rền, U Bò, Trúc (Quảng Bình), Ba Tơ (Quảng Ngãi), Phú Yên, Khánh Hòa, K’Bang (Gia Lai), Sa Thầy (Kon Tum)...

Còn theo Tiến sĩ (TS) Nguyễn Mạnh Hà, Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và đa dạng sinh học Đại học Quốc gia Hà Nội, số liệu của các cơ quan chức năng đưa ra số lượng hổ trong tự nhiên ở Việt Nam khoảng 50-150 con. Tuy nhiên, ước đoán của ông Hà, con số có tính hiện thực cao hơn là không quá 50 con, thậm chí không quá 20 con. Những thông tin hiện nay về hổ ngoài tự nhiên ở Việt Nam là rất mơ hồ.

Hình ảnh gần đây nhất ghi nhận về sự tồn tại của một con hổ hoang dã trong tự nhiên chính là bức ảnh do bẫy ảnh chụp được tại Vườn Quốc gia Pù Mát (Nghệ An) vào năm 1998. Cũng vào năm này, một người dân ở Khu Bảo tồn thiên nhiên Phong Điền (Thừa Thiên - Huế) bẫy được một "chú" hổ con, cá thể hổ này đã được kiểm lâm thu giữ, sau chuyển về nuôi tại Vườn thú Hà Nội, được đặt tên là Lâm Nhi.

Người ta cho rằng, hổ chỉ còn tồn tại ở vùng rừng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, dải Trường Sơn, Pù Mát. Ngay cả vùng núi phía Bắc, nơi trước đây có rất nhiều hổ sinh sống đã bị mất tên trên bản đồ phân vùng có hổ. Như ở Đắk Lắk, trước đây loài hổ phân bố nhiều tại các khu rừng rậm thuộc các địa bàn rừng Yok Đôn, vùng biên giới buôn Đôn, Ea Súp, sống trên rừng núi Cư Yang Sin (huyện Krông Bông); trong khu rừng rậm Nam Kar (Đắk Lắk), buôn Za Wầm (Cư M'ga), Ea Sô (Ea Kar) và các khu rừng bên trảng cỏ các huyện M'Đrắk, Krông Năng, Ea H'leo vẫn thường gặp hổ.

Cách đây 20-25 năm, trong khu rừng rậm Nam Kar là khu bảo tồn thiên nhiên có nhiều cá thể hổ sinh sống cùng với nhiều loài động vật hoang dã tại đây, nhưng nay hổ ở đây đã hoàn toàn biến mất. Các khu rừng rậm nguyên sinh thuộc các huyện Cư M'Gar, Krông Năng, Ea H'leo, vùng biên giới buôn Đôn, Ea Súp trước đây có khá nhiều động vật hoang dã và nhiều cá thể hổ, nhưng nay không ai còn nghe thấy những tiếng gầm oai dũng của chúng nữa.

Tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Ea Sô, cách đây hơn chục năm các nhà khoa học vẫn thấy dấu vết hổ sinh sống. Nạn săn trộm và sự tàn phá rừng, các loại động vật quý hiếm của khu đa dạng sinh học này như bò tót, bò rừng đang chỉ tồn tại rất ít, loài hổ và hươu đầm lầy là động vật rất quý ở đây nay cũng không còn. Theo các nhà khoa học, hiện nay chỉ còn một số cá thể hổ đang sống trong rừng Vườn Quốc gia Yok Đôn và Cư Yang Sin. Tuy vậy, số cá thể hổ ít ỏi này không biết còn tồn tại được bao lâu...

Trên thế giới, số phận của hổ cũng đang rất nguy cấp. 3 trong số 9 loài hổ chính của thế giới: Hổ Bali, hổ Caspian và hổ Java hiện đã bị xóa sổ, chỉ còn lại hổ Bengal, Amur, Indochinese, Sumatran và hổ Malayan còn tồn tại nhưng số lượng rất hạn chế. Một số tài liệu thống kê, hiện nay, trên toàn thế giới chỉ còn khoảng 3.200 con hổ còn sống sót và sự tồn tại của chúng đang bị đe dọa bởi nạn săn bắn, môi trường sống bị phá hủy và biến đổi khí hậu.

Theo ước tính, Bangladesh còn khoảng 200 cá thể, đặc biệt là ở khu vực Sunderbans, Ấn Độ là 1.400 con, ở Nepal là 120 con, Nga còn khoảng 400 con, Malaysia 500 con. Số lượng hổ ở Trung Quốc có thể không vượt quá 30 con. Hổ bị săn lùng trên khắp thế giới để lấy da, móng vuốt vì da hổ và móng vuốt hổ vẫn được coi là mặt hàng xa xỉ ở một số nước, không ít quốc gia châu Á người ta giết hổ để lấy xương, vì xương hổ được xem là một vị thuốc quý có thể trị bách bệnh (dù chưa có một chứng minh khoa học nào về tác dụng của cao hổ với sức khỏe con người).

Ngày 10/2/2010, WWF lần đầu tiên công bố bản đồ tương tác về hổ. Bản đồ - cung cấp thông tin về 10 quốc gia và vùng lãnh thổ có hổ, một cái nhìn tổng thể về những mối đe dọa dành cho loài hổ hoang dã. Nó được công bố khi nhiều quốc gia tại châu Á và trên thế giới chuẩn bị chào đón năm Canh Dần từ ngày 14/2/2010.

Ông Mike Baltzer, Trưởng nhóm sáng kiến về hổ của WWF, phát biểu: "Hổ đang bị ngược đãi ở những nơi chúng cư trú. Chúng bị đầu độc, săn bắt, đánh bẫy, lùng bắn và bị đẩy ra khỏi nơi sinh sống". Những mối đe dọa khác đối với loài hổ hoang dã cũng được đánh dấu trên bản đồ, bao gồm: Các công ty bột giấy, giấy, dầu cọ và cao su đang làm cạn kiệt các khu rừng ở IndonesiaMalaysia - nơi đang còn cá thể hổ hoang dã sinh sống. Hàng trăm công trình và dự án xây dựng đập và đường mới trong khu vực tiểu sông Mekong sẽ triệt tiêu khu sinh sống của hổ. Tình trạng buôn bán trái phép xương, da và thịt hổ vẫn tiếp diễn ở khu vực Đông, Đông Nam Á và những nơi khác.

Sau một nghiên cứu tại Việt Nam, 1 trong 13 nước còn trên bản đồ hổ, WWF đã đưa ra nhận định: Hổ ở Việt Nam vẫn đang đứng trước nguy cơ diệt vong cao, do khả năng thích nghi thấp với các sinh cảnh manh mún, quần thể nhỏ. Theo các nhà bảo vệ loài vật này thì với tình trạng săn bắn hổ ngày càng gia tăng, nếu không có chính sách quản lý, bảo vệ và bảo tồn hổ thỏa đáng, số lượng hổ ít ỏi còn lại ở một số khu rừng sẽ bị tiêu diệt trong một ngày không xa. WWF cũng nhấn mạnh, chính nhu cầu ngày càng tăng trong việc sử dụng các bộ phận của hổ trong các bài thuốc cổ truyền đã trở thành nguyên nhân chính đẩy loài hổ tại khu vực Đông Dương đến bờ tuyệt chủng.--PageBreak--

“Bài toán” bảo tồn loài “chúa sơn lâm”

Tại hội thảo về loài hổ tại Thái Lan, mới đây, ông Nick Cox, điều phối viên chương trình bảo vệ loài hổ dọc lưu vực sông Mekong của WWF nói: "Chúng ta cần có những hành động quyết liệt để đảm bảo những con hổ còn lại. Nhiều khả năng loài hổ ở Việt Nam, Lào và Campuchia sẽ tuyệt chủng vào năm 2022 - năm Hổ tiếp theo, theo lịch Á Đông, nếu chúng ta không có những hành động hữu hiệu để bảo vệ chúng".

Ngay từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, có một số hoạt động bảo tồn hổ được triển khai, vào năm 1992 Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường đã có các hoạt động tập huấn, tuyên truyền nâng cao năng lực cho các hoạt động bảo tồn hổ ở Việt Nam. Từ năm 1994 đến 1996, Cục Kiểm lâm triển khai một dự án nâng cao năng lực bảo tồn hổ ở Việt Nam, tập trung chủ yếu cho khu vực Quảng Nam và Tây Nguyên.

Từ năm 1999 đến 2000, WWF cũng có một dự án bảo tồn hổ ở Tây Nguyên và Trung Trường Sơn. Năm 2006, WWF mở rộng các hoạt động bảo tồn hổ ra khu vực Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị và Quảng Nam. Nhưng đó cũng chỉ là các hoạt động bảo tồn hổ mang tính chất nhỏ lẻ, lồng ghép trong các dự án bảo tồn đa dạng sinh học chứ không phải các dự án riêng cho loài hổ, và kết quả của những dự án bảo tồn ấy là loài hổ Việt Nam ngày càng gần con đường... tuyệt chủng.

Hai chú hổ ở Công ty Bia Pacific Bình Dương.

TS Nguyễn Mạnh Hà cho biết: Trong 15 năm tới, Việt Nam sẽ thực hiện 5 mục tiêu để bảo tồn hổ, phục hồi được quần thể hổ ở các khu vực bảo tồn ưu tiên và các khu bảo tồn quan trọng. Tăng cường hơn nữa các hoạt động quản lý buôn bán động thực vật hoang dã ở các vùng bảo tồn hổ. Theo TS Hà, cơ hội bảo tồn hổ có trở thành cứu cánh cho hổ Đông Dương hay không, phụ thuộc vào sự nhạy cảm của các cơ quan chức năng và tâm huyết của các nhà sinh học.

Cho đến nay các tổ chức bảo vệ động vật hoang dã vẫn chưa thống nhất quan điểm nên bảo tồn hổ tại chỗ hay nuôi nhốt sinh sản. TS Scott Roberton, Giám đốc Hiệp hội Bảo tồn động vật hoang dã thế giới (WCS) - Chương trình Việt Nam, hiện nay số hổ nuôi nhốt tại Việt Nam gần 100 con. Tại Việt Nam, việc nuôi hổ dễ, cho hổ đẻ cũng dễ. Do đó, nếu nhân giống tốt, các cơ sở nuôi nhốt hổ sẽ không còn chỗ nào cho hổ ở!?

Tại hội thảo (Bình Dương vào tháng 12/2009), ông Scott đưa ra câu hỏi: "Hổ nuôi nhốt có giúp cho công tác bảo tồn động vật hoang dã hay không?", rồi ông tự trả lời là "Không". Bởi theo ông,  việc gia tăng số lượng hổ trong điều kiện nuôi nhốt chỉ có ích cho các cá thể hổ hoang dã nếu hổ được nhân giống nhằm mục đích bảo tồn. "Tuy nhiên, việc thả hổ nuôi nhốt về rừng sẽ khó hơn việc bảo vệ hổ hoang dã trong tự nhiên. Vì thế việc nuôi nhốt hổ không có ích cho công tác bảo tồn" - TS Scott nhấn mạnh.

Rất nhiều ý kiến của các nhà khoa học đồng tình với ý kiến của ông Scott. Người ta cho rằng, việc bảo tồn loài hổ bằng cách nuôi nhốt là con đường ngắn nhất dẫn đến việc tận diệt loài động vật từng được coi là "chúa sơn lâm", bởi hổ đã bị nuôi nhốt thì không còn cơ hội trở lại tự nhiên, vì vậy bảo tồn chúng không có nơi nào tốt hơn chính là trong thiên nhiên hoang dã, nơi nó tự do sinh hoạt, kiếm mồi và sinh sản.

Tại Việt Nam, tranh cãi cũng từng xảy ra cách đây vài năm với trường hợp hổ nuôi nhốt và cho sinh sản tại Công ty Bia Pacific ở huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Lúc đó, luật pháp Việt Nam chưa có quy định điều chỉnh nên dư luận cũng chia làm hai phe và rốt cuộc Công ty Bia Pacific được tiếp tục nuôi theo hiện trạng nhưng phải cam kết đảm bảo an toàn và không được buôn bán hoặc khai thác vì mục tiêu lợi nhuận. Đến thời điểm hiện nay, Bình Dương được biết đến như hai địa phương nổi tiếng về nuôi nhốt hổ, ông Ngô Duy Tân, chủ trang trại hổ Pacific được mệnh danh là ông "vua hổ" Việt Nam...

Chúng tôi không dám bàn luận nhiều về ý kiến của các nhà khoa học, bởi họ đã tham gia nhiều năm trong những dự án bảo tồn loài hổ, tuy nhiên, từ "dự án" đến "thực tế" trong những dự án bảo tồn loài động vật quý hiếm này đã có một khoảng cách rất lớn. Theo chúng tôi được biết, với môi trường sống thỏa đáng (đủ mồi săn và được bảo vệ thích hợp), số lượng hổ hoang dã có thể tăng lên. Bằng chứng là vào cuối thập niên 70 thế kỷ trước, một dự án bảo tồn hổ đã rất thành công ở Ấn Độ. Khi đó, số lượng hổ ở nước này đang giảm mạnh, từ khoảng 40.000 con trong những năm 30 xuống còn chưa đến 2.400 con.

Tổ chức WWF triển khai chiến dịch hổ, và WWF nhận được sự giúp đỡ của Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi trong việc Chính phủ đứng ra triển khai chiến dịch hổ và thiết lập lực lượng bảo vệ hổ cao cấp để giúp phục hồi số lượng hổ. Trong vòng một vài tháng, một số khu bảo tồn hổ nổi tiếng hiện nay được thành lập: Corbett ở Uttar Pradesh, Kanha ở Madya Pradesh, Manas ở Assam, Ranthambhore ở Rajastan, và Sunderban ở Tây Bengal. Những khu vực được lựa chọn dựa theo tiềm năng bảo tồn hổ tốt nhất.

Những tiêu chuẩn đó là dựa vào số lượng hổ lớn đang tồn tại, khả năng loại bỏ những trở ngại cho dự án, và điều kiện mở rộng khu vực bảo tồn với khu vực rừng để việc tăng số lượng hổ được thuận lợi. Khu vực tâm điểm có ít nhất khoảng 30.000 hécta đã được thiết lập ở mỗi khu bảo tồn hổ, không có sự can thiệp của con người. Những nỗ lực này lập tức cho thấy kết quả tích cực. Điều này chứng tỏ, loài hổ có thể phục hồi số lượng nhanh chóng khi môi trường sống và nguồn thức ăn của chúng được bảo vệ.

Còn tại Việt Nam, từ trại hổ của ông Ngô Duy Tân, thiết nghĩ, hổ có thể bảo tồn, phục hồi số lượng, bằng kinh nghiệm của người Ấn Độ và "tay nghề" của "vua hổ" Ngô Duy Tân. Một điều chắc chắn rằng, với thực trạng bi thảm hiện nay, không nên "thả hổ về rừng", phó mặc sự sinh tồn của chúng cho rừng xanh...

Năm Canh Dần 2010 này, đã có rất nhiều, rất nhiều lời kêu gọi, kế hoạch bảo tồn loài hổ, không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới, nhưng đừng để những kế hoạch bảo tồn ấy mãi nằm trên giấy

Thuận Nguyên
.
.