Không tố giác tội xâm phạm an ninh quốc gia, luật sư phải chịu trách nhiệm hình sự

Thứ Ba, 20/06/2017, 15:32
Với 434 ĐBQH (88,39%) tán thành, chiều nay, 20-6, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13. Một trong những nội dung được ĐBQH quan tâm là quy định chịu trách nhiệm hình sự của luật sư khi không tố giác tội phạm.


Luật sư có nghĩa vụ như mọi công dân trong tố giác tội phạm

Theo Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 do Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp Lê Thị Nga trình bày, về sửa đổi, bổ sung Điều 19 - Không tố giác tội phạm của BLHS năm 2015 (khoản 5 Điều 1 của dự thảo Luật), có ý kiến đề nghị giữ phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người bào chữa như BLHS năm 2015 để bảo đảm nhất quán về chính sách hình sự của Nhà nước ta, tăng cường trách nhiệm công dân của người bào chữa trong công tác đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội đặc biệt nghiêm trọng.

Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp Lê Thị Nga

Có ý kiến đề nghị quy định chính sách đối với người bào chữa tương tự như chính sách đối với ông, bà, cha, mẹ, anh chị em ruột... của người phạm tội quy định tại BLHS năm 2015. Có ý kiến đề nghị chỉ nên giới hạn Luật sư phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi không tố giác tội phạm đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội và đang thực hiện tội phạm nhằm ngăn ngừa hậu quả xảy ra và chỉ đối với một số tội nhất định mà không mở rộng sang cả giai đoạn tội phạm đã thực hiện.

Có ý kiến đề nghị không quy định Luật sư phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi không tố giác tội phạm và cho rằng, quy định này xung đột với Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự và không tương thích với thông lệ quốc tế; không bảo đảm quyền bào chữa, nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; không phù hợp với tính chất đặc thù của nghề luật sư, có thể dẫn đến mất niềm tin của thân chủ đối với Luật sư.

Trong quá trình chỉnh lý dự thảo Luật, Ban thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam đề nghị 2 phương án:

Phương án 1: chỉ quy định trách nhiệm hình sự của người bào chữa trong trường hợp “không tiết lộ thông tin về tội phạm do chính người mà mình bào chữa thực hiện đối với các tội đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Điều 108 (Tội phản bội Tổ quốc), Điều 109 (Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân), Điều 112 (Tội bạo loạn), Điều 113 (Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân) và Điều 123 (Tội giết người) khi có căn cứ rõ ràng cho thấy tội phạm đó đang thực hiện hoặc đang chuẩn bị thực hiện mà cần thiết phải ngăn chặn hậu quả xảy ra”.

ĐBQH biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 chiều 20-6

Phương án 2: đề nghị bỏ khoản 3 Điều 19 của Bộ luật hình sự năm 2015.

UBTVQH nhận thấy, về nguyên tắc, với tư cách là công dân thì người bào chữa có nghĩa vụ bình đẳng như mọi công dân khác trong việc tố giác tội phạm. Nhất quán chính sách này, BLHS các năm 1985, 1999 đều quy định về nghĩa vụ tố giác tội phạm của công dân và trách nhiệm hình sự của công dân về hành vi không tố giác tội phạm (Điều 19 BLHS năm 1985, Điều 22 BLHS năm 1999). Trong suốt hơn 30 năm (từ 1985-2015), chính sách của Nhà nước ta về trách nhiệm hình sự đối với hành vi không tố giác tội phạm của người bào chữa được xác định như mọi công dân khác.

Nhân dân không đồng ý miễn trừ hoàn toàn trách nhiệm của luật sư

Năm 2015, cân nhắc đặc thù của hoạt động bào chữa, mối quan hệ giữa người bào chữa với người được bào chữa nên tại BLHS năm 2015, Quốc hội đã có sự điều chỉnh hợp lý hơn chính sách này theo hướng thu hẹp một phần phạm vi trách nhiệm hình sự của người bào chữa so với công dân khác trong việc không tố giác tội phạm.

Việc Nhà nước không miễn trừ hoàn toàn trách nhiệm của người bào chữa xuất phát từ mục đích bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng nên trong một số trường hợp người bào chữa vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi không tố giác tội phạm của chính người mà mình bào chữa.

“Vấn đề miễn trừ trách nhiệm hình sự của người bào chữa đối với hành vi không tố giác tội phạm của người mà mình bào chữa đã được Quốc hội tổ chức lấy ý kiến nhân dân trong quá trình xây dựng BLHS năm 2015. Kết quả cho thấy, đa số ý kiến nhân dân không đồng ý miễn trừ hoàn toàn trách nhiệm của người bào chữa” – Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp cho biết.

Toàn cảnh phiên họp

Do đó, BLHS năm 2015 đã xác định người bào chữa phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi không tố giác tội phạm do chính người mà mình bào chữa thực hiện đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia và tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng (ở cả 3 giai đoạn: chuẩn bị phạm tội, đang thực hiện tội phạm và đã thực hiện tội phạm), còn đối với các tội khác được quy định tại Điều 389 thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự ở 2 giai đoạn chuẩn bị phạm tội và đang thực hiện tội phạm; không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với giai đoạn đã thực hiện tội phạm.

 Theo bà, chính sách này phù hợp với quy định của Điều 5 và Điều 25 Luật luật sư và cũng phù hợp với Quy tắc 1, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam.

Bên cạnh đó, tham khảo kinh nghiệm của một số nước như Thái Lan, Trung Quốc, Đức, Thụy Điển, Hoa Kỳ, Canada, Tây Ban Nha... cho thấy: các nước đều quy định trong những trường hợp nhất định luật sư được tiết lộ thông tin về thân chủ của mình trong quá trình hành nghề để bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích của xã hội, cộng đồng nhằm ngăn chặn hậu quả của tội phạm.

“Do đây là vấn đề được nhiều ĐBQH và dư luận xã hội quan tâm nên sau khi báo cáo cơ quan có thẩm quyền, cân nhắc kỹ nhiều mặt, UBTVQH xin Quốc hội cho tiếp thu một phần ý kiến của ĐBQH, của Ban thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam để chỉnh lý khoản 3 Điều 19 của BLHS 2015 theo hướng thu hẹp hơn phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người bào chữa về hành vi không tố giác tội phạm” – Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp Lê Thị Nga nêu.

Điều 19, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13:

1. Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm theo quy định tại Điều 390 của Bộ luật này.

2. Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

3. Người không tố giác là người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa”.


Quỳnh Vinh
.
.