30 năm, nhìn lại thảm họa giàn khoan Piper Alpha

Thứ Sáu, 05/01/2018, 11:34
9 giờ 55 phút tối ngày 6-7-1988, một vụ nổ kinh hoàng đã xảy ra trên giàn khoan dầu Piper Alpha, khi đó đang hoạt động trong vùng Biển Bắc, cách 190 km về phía đông bắc thành phố Aberdeen, Scotland, Anh.

Tiếp theo, khí gas cùng dầu thô phun lên tạo thành 9 vụ nổ nữa, dẫn đến sự sụp đổ của cả khối sắt thép khổng lồ. Tai nạn gây ra bởi sự bất cẩn đã cướp đi sinh mạng của 167 con người, trong đó có nhiều kỹ sư đầu ngành dầu khí nước Anh …

Những sơ suất chết người

Sự việc bắt đầu vào năm 1972, khi liên doanh khai thác dầu khí OPCAL, Anh Quốc phát hiện một mỏ dầu mới gọi là mỏ Piper, nằm trong vùng Biển Bắc, cách thành phố Aberdeen, Scotland 190km về phía đông bắc.

Đến lúc có giấy phép khai thác vào năm 1973, OPCAL tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng, đường ống dẫn dầu, dẫn khí đốt và các công trình hỗ trợ trên bờ. Song song với những việc này, OPCAL cho lắp đặt 4 khoang chức năng (module) vào hệ thống chân đế vừa mới được đóng rồi đặt tên cho nó là Piper Alpha.

Cuối tháng 10-1975, giàn Piper Alpha được kéo ra biển và được cắm sâu xuống đáy biển 144m. Nó là một trong hai giàn khoan lớn nhất trên vùng Biển Bắc thời đó. Nhận thức sự nguy hiểm bởi lẽ Piper vừa khai thác dầu, vừa khai thác khí đốt nên 3 khoang chuyên dùng cho công việc ấy được lắp đặt cách biệt hẳn với khoang dành cho đội ngũ kỹ sư, công nhân.

Thế nhưng có một sai lầm mà sau khi thảm họa xảy ra, các nhà điều tra đã nêu câu hỏi vì sao khu vực đặt hệ thống máy nén khí đốt lại được bố trí ngay cạnh phòng điều khiển mặc dù Piper Alpha ra đời bởi Công ty McDermott Engineering và UIE - là 2 công ty hàng đầu thế giới trong lĩnh vực thiết kế, thi công giàn khoan dầu.

Những người vừa trải qua tai nạn kinh hoàng được trực thăng cứu vớt.

Tháng 2-1976, Piper Alpha bắt đầu khai thác với sản lượng 250.000 thùng dầu thô mỗi ngày - tương đương 40.000m³, sau đó tăng lên 300.000 thùng và 1.600.000m³ khí đốt. Để vận chuyển số dầu ấy, liên doanh OPCAL  đã xây dựng bể chứa Flotta nằm ở quần đảo Orkney với một ống dẫn đường kính 76cm, nối từ giàn Piper Alpha đến Flotta, dài 206km.

Bên cạnh đó, còn có một ống dẫn phụ dài 32km từ Piper Alpha đến bể Claymore. Riêng về khí đốt, từ bể chứa Tartan có một đường ống 46cm, dẫn về nhà máy xử lý MCP-01, dài 48km.

Theo kế hoạch, sau 12 năm liên tục hoạt động, tháng 7-1988, Piper Alpha sẽ được bảo dưỡng và nâng cấp lớn bởi Công ty Occidental khi nó vẫn đang hoạt động vì thời điểm ấy, Piper Alpha phải thực hiện hợp đồng xuất khẩu 120.000 thùng dầu thô và hơn 1 triệu m³ khí/ngày.

12 giờ trưa ngày 6-7-1988, nằm trong kế hoạch bảo dưỡng, nâng cấp lớn, 2 máy bơm ngưng tụ - gọi là bơm A và bơm B - dùng để nén khí đốt trước khi chuyển nó đến bể Tartan, ngừng hoạt động. Trước đó, van an toàn áp suất của bơm A đã được tháo ra để bảo dưỡng định kỳ, ống ngưng tụ tạm thời bị niêm phong. Và bởi vì không thể kết thúc trước 6 giờ chiều nên kỹ sư phụ trách bảo dưỡng đã ký vào biên bản, xác định bơm A chưa sẵn sàng vận hành nên không được phép khởi động nó trong bất kỳ mọi trường hợp.

6 giờ chiều, 74 người làm việc ban ngày được thay bằng 62 người làm ca đêm. Lúc bàn giao giữa 2 ca, có lẽ do muốn kết thúc nhanh để về khoang tắm rửa, ăn uống, một kỹ sư đã cầm tờ biên bản “không được phép khởi động bơm A trong bất kỳ mọi trường hợp” đặt lên chiếc bàn trong phòng kiểm soát trung tâm. Điều ngẫu nhiên là khi ấy trên bàn cũng có một giấy phép sửa chữa, đại tu bơm B nên chẳng ai để ý đến tờ biên bản.

9 giờ 45 phút tối, những người làm ca đêm phát hiện methane clathrate (một loại đá chứa methnol dễ cháy) tích tụ trong đường ống dẫn khí nén, gây tắc nghẽn. Vì thế bơm B ngừng hoạt động và không thể khởi động lại.

Sau nhiều nỗ lực, đến 9 giờ 52 phút, các kỹ sư khôi phục được bơm B trong lúc một nhóm khác bắt đầu vận hành bơm A. Do không đọc biên bản, họ chẳng hề biết rằng van kiểm soát áp suất đã được tháo ra để bảo dưỡng và chiếc đĩa kim loại đậy kín miệng nối giữa van áp suất và đường ống dẫn khí (từ chuyên môn gọi là “mặt bích”) được lắp vào chỉ với vài con bù loong lỏng lẻo.

Điều này có nghĩa là nếu vận hành bơm A, khí đốt với lực nén rất lớn sẽ phá tung “mặt bích” để thoát ra ngoài

Vài giây trước thảm họa

9 giờ 53 phút, công tắc khởi động bơm A được bật lên. Khí đốt lập tức tràn vào ống dẫn. Và vì van an toàn đã được tháo ra nên chưa đầy 1 phút, khí đốt với áp suất cực lớn thổi bay “mặt bích”.

Lập tức, nhóm kỹ sư, công nhân vận hành bơm A phát lệnh báo động khẩn cấp. Từ phòng chỉ huy, trưởng giàn khoan ra lệnh đóng tất cả các van trong các đường ống nằm chìm dưới biển, đồng thời cho dừng tất cả mọi hoạt động khai thác. Và trong khi mọi việc đang được tiến hành thì 9 giờ 55 phút, lượng khí đốt thoát ra ngoài bất ngờ bốc cháy rồi nổ tung, thổi bay những tấm thép được gọi là “bức tường an toàn”, che chắn xung quanh bơm A, đồng thời cũng phá vỡ nhiều mảng của “bức tường an toàn che chắn xung quanh bơm B.

Một trong những mảnh vỡ của “bức tường an toàn” bắn ra xa, làm vỡ một đường ống dẫn khí khác, tạo thêm một đám cháy. 27 kỹ sư, công nhân đứng cạnh bơm A chết ngay lập tức vì lửa và vì sức ép của vụ nổ. Những người may mắn sống sót cho biết vụ nổ tạo ra một quầng lửa đường kính khoảng 30m, bốc lên cao hơn 100m, cháy ngùn ngụt.

Sáng ngày 7-7, lửa vẫn cháy ngùn ngụt từ đường ống dẫn dầu thô và khí đốt.

Giống như tất cả những giàn khoan khác, Piper Alpha có hệ thống chữa cháy tự động, vận hành bởi 2 máy diesel và một máy bơm điện. Nó được thiết kế để có thể tự hút nước biển và tự phun trong trường hợp xảy ra hỏa hoạn nhưng sau vụ nổ đầu tiên, cả 3 máy bơm đều bị phá hủy nên ngọn lửa mặc sức hoành hành. Hai công nhân mặc quần áo chống cháy lao vào với nỗ lực khởi động lại máy bơm nhưng vĩnh viễn không bao giờ còn ai nhìn thấy họ.

10 giờ 04 phút tối, sức nóng dữ dội đã khiến những người làm việc trong phòng điều khiển trung tâm của giàn khoan Piper Alpha phải bỏ chạy xuống các tầng dưới. Họ sợ hãi đến mức quên luôn cả việc phát lệnh sơ tán khẩn cấp bằng xuồng cứu sinh.

David Brown, kỹ sư phụ trách nhóm thợ lặn kể lại: “Lúc ấy ai cũng chỉ nghĩ đến mạng sống của mình vì tất cả đều hiểu rằng nếu hỏa hoạn xảy ra ở trên bờ thì có nhiều cách để sống sót, chẳng hạn chạy cho thật xa. Nhưng trên biển thì không thể chạy đi đâu được khi mà 2/3 giàn khoan đã chìm trong lửa…”.

Ở phòng truyền tin, kỹ sư David Kinrade gào như điên dại vào micro: “May Day, May Day (có nghĩa là “cấp cứu”) trước khi thoát ra ngoài. Anh kể: “Cùng với số người đang nghỉ ngơi trong khoang dành cho đội ngũ kỹ sư, công nhân, chúng tôi cố gắng chạy ra các giá treo, nơi buộc những chiếc xuồng cứu sinh nhưng lửa đã không cho phép chúng tôi đến được nơi cần đến”.

Tuyệt vọng, nhóm người ấy chạy xuống khu vực nằm dưới sàn đỗ máy bay trực thăng, là nơi ngọn lửa vẫn chưa bén tới nhưng chỉ vài phút, khói bắt đầu lan vào khiến họ lại phải chạy ra ngoài. Vài người liều lĩnh nhảy từ độ cao hơn 60m xuống biển. Tất cả chẳng ai còn sống.

4 tàu chữa cháy phun nước dập lửa trên giàn khoan Piper Alpha.

10 giờ 5 phút tối, một đơn vị tìm kiếm cứu hộ của Không quân Hoàng gia Anh đóng tại Lossiemouth nhận được cuộc gọi cấp cứu “May Day” đầu tiên từ giàn khoan Piper Alpha. Lập tức, một trực thăng Sea King số hiệu 202 cất cánh hướng ra biển Bắc. Cùng lúc đó, Lực lượng phòng vệ bờ biển ở thành phố Aberdeen cũng được thông báo. 4 tàu chữa cháy xuất phát cùng 1 máy bay tuần tra Nimrod làm nhiệm vụ chỉ huy cứu nạn từ trên không.

Trung úy Osborn, phi công lái chiếc trực thăng Sea King nhớ lại: “Không thể tiếp cận giàn khoan vì ngọn lửa quá dữ dội, chúng tôi chỉ biết bay vòng vòng, tìm xem có người nào ở dưới nước để vớt họ. Cả một vùng biển xung quanh Piper Alpha sáng rực như ban ngày”.

10 giờ 20 tối, dưới sức nóng của vụ hỏa hoạn, đường ống dẫn khí đốt đến bể chứa Tartan vỡ,  25 tấn khí thoát ra trong mỗi giây rồi bốc cháy. Cũng lúc này, các tàu chữa cháy bắt đầu phun nước lên nhưng phun một cách hạn chế vì nhân viên trên tàu không thể nhìn thấy khu vực nào trên giàn khoan đang có người ẩn náu. Dưới áp suất cực lớn của vòi phun, tia nước sẽ giết chết họ nếu nó phun trúng họ.

10 giờ 50 phút tối, đường ống dẫn khí thứ 2 đến nhà máy xử lý MCP-01 rò rỉ, phun ra hàng triệu mét khối khí vào đám cháy cùng với những tiếng nổ kinh hoàng. Dưới sức nóng, kết cấu thép của giàn khoan chảy ra, oằn xuống. Đến 11 giờ 18 phút, đường ống dẫn dầu thô đến bể chứa Claymore nổ tung. Số phận của giàn khoan Piper Alpha xem như đã được định đoạt.

11 giờ 37 phút, một tàu cứu hộ vớt được 25 tử thi. Một tàu khác cứu sống 12 người đang trôi dạt trên biển. 11 giờ 50, cần cẩu chính trên giàn Piper Alpha sụp đổ, tiếp theo là trục khoan. Vài giây sau đó, hệ thống chân đế nâng đỡ các khoang (module) bị sức nóng uốn cong khiến cả 4 khoang trượt xuống biển, kéo theo những người đang trú ẩn bên trong nó.

Vào thời điểm xảy ra thảm họa, giàn khoan Piper Alpha có  226 người. Hậu quả là 165 người chết, 61 người sống sót. 2 người khác làm nhiệm vụ cứu nạn trên tàu Sandham cũng chết vì phỏng lửa, nâng con số tử vong lên 167 người…

4 tháng sau ngày xảy ra thảm họa - tháng 11-1988 - cuộc điều tra kết thúc với sự khẳng định là việc bảo trì Piper Alpha do Occidental thực hiện đã không tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc an toàn, cùng với đó là một khoản tiền bảo hiểm lên đến 1,4 tỷ USD -  lớn nhất trong số những bảo hiểm về thảm họa do con người gây ra thời bấy giờ.

Theo bản tường trình của Giáo sư David Alexander, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Aberdeen thuộc Đại học Robert Gordon thì với 36 người sống sót mà ông đã phỏng vấn, hơn 70% đều gặp phải những rối loạn căng thẳng, ác mộng, mất ngủ và trầm cảm. 28 người cho biết họ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm vì một số nhà tuyển dụng cho rằng những người sống sót sau thảm họa  Piper Alpha sẽ không được chào đón trên những giàn khoan khác.

Bên cạnh đó, thân nhân của những người đã chết cũng gặp phải những vấn đề tâm lý, xã hội khác nhau.

Jonahs, một kỹ sư may mắn sống sót nói: “Nếu bạn đã đọc tập thơ Thần Khúc của Dante, trong đó ông mô tả những cảnh kinh hoàng của địa ngục thì tôi xin thưa với bạn rằng vụ nổ giàn khoan Piper Alpha còn khủng khiếp hơn một triệu lần Thần Khúc”.

Vũ Cao (theo History - Seconds from Disaster)
.
.