Bí mật những thảm hoạ hạt nhân
Đặc khu Hạt nhân
Trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ 2, nơi đây là một bộ phận của Dự án
Ở
Trong năm 1945, các quan chức ở
Sau đó, các quan chức ở
Những quan chức ở
Nhưng Chính phủ Mỹ luôn không nói đúng sự thật về những hiểm họa đối với sức khỏe và môi trường do việc sản xuất vũ khí hạt nhân gây ra nên đã hờ hững với những yêu cầu giúp đỡ và đền bù suốt một thời gian dài.
Toàn bộ cảnh quan tổ hợp Mayak khi còn hoạt động. |
Ở Nga cũng có một tổ hợp hạt nhân ở thành phố
Từ cuối thập niên 40 của thế kỷ trước, khi tổ hợp Mayak bắt đầu sản xuất vũ khí hạt nhân, đến giữa những năm 50, chất thải hạt nhân đã được đổ trực tiếp vào sông Techa cạnh đó. Theo một công trình nghiên cứu của Viện Lý sinh Chelyabinsk vào năm 1990 thì kết quả kiểm xạ trung bình cho hàng chục ngàn người sống ở phía hạ lưu sông Techa là khá lớn.
Xét về mặt y tế, việc sông Techa bị nhiễm bẩn phóng xạ là thực trạng tồi tệ nhất trong những nhiễm bẩn hạt nhân ở
Khu bể chứa nước thải hạt nhân ở Mayak được xây dựng vào năm 1953. Ngày 29/9/1957, hệ thống làm lạnh bị trục trặc đã làm chất thải bên trong khô cạn và nóng đến 350oC và gây nổ.
Sức mạnh của vụ nổ sau đó - tương đương với 5 đến 10 tấn thuốc nổ TNT - đã nhấc bổng chiếc nắp bêtông nặng hàng tấn và ném đi xa 25m, rồi tung một đám bụi phóng xạ khổng lồ vào không khí.
Tổng lượng phóng xạ thoát ra đo được là 20 triệu Ci, gấp 10 lần lượng phóng xạ đã đổ vào sông Techa trước đó. Tất cả các cây thông ở một khu vực có diện tích 20km2 xung quanh nơi xảy ra vụ nổ đã chết trong khoảng thời gian là 18 tháng.
Bên cạnh tổ hợp Mayak có một hồ nước tự nhiên tên Karachay. Từ năm 1951, hồ Karachay được sử dụng vào việc chứa chất thải hạt nhân khi các quan chức ở Mayak thấy rằng, không thể tiếp tục tống chất thải ra sông Techa, và trước khi phải xây dựng những bể chứa thải, nơi đã xảy ra vụ nổ vào năm 1957.
Kiểm tra nồng độ phóng xạ định kỳ tại hồ Karachay. |
Từ năm 1951 đã có 120 triệu Ci phóng xạ được thải vào hồ Karachay. Riêng lượng các chất phóng xạ Stronti-90 và Cesi-137 lớn hơn khoảng 100 lần lượng hai chất này rò rỉ tại
Karachay là một hồ tự nhiên không có lối chảy ra ngoài. Vì thế các quan chức ở Mayak yên chí là hệ thống nước trong vùng sẽ không bị ảnh hưởng. Nhưng thật rủi ro, thực tế lại không như vậy.
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Lý sinh Chelyabinsk vào năm 1990 thì 93% lượng phóng xạ đã ngấm vào đất dưới đáy hồ và 60% lượng này đã hòa vào nguồn nước ngầm.
Tai họa không chỉ dừng lại ở đó. Nếu bị ảnh huởng bởi một trận động đất hoặc một số dạng thiên tai khác, hồ Karachay có thể "phân phát" những gì nó tích lũy được khắp các khu vực xung quanh.
Điều phải xảy ra đã xảy ra. Mùa đông năm 1966, một đợt hạn hán quái ác đã nhanh chóng làm nước hồ Karachay cạn sạch và để lại một lớp bụi phóng xạ có hoạt độ rất cao ở lòng hồ cũng như ở bờ hồ. Vào mùa hè năm 1967, những trận gió mạnh đã cuốn đám bụi tử thần này lên cao và đưa chúng đi rất xa. Khoảng 25.000km2 và 436.000 người đã bị nhiễm xạ