Hồ sơ mới giải mật: CIA và nhà họ Ngô (kỳ 3)

Thứ Hai, 27/04/2009, 05:50
Hợp tác với người Mỹ nói chung giống y như câu nói dân gian “chơi dao có ngày đứt tay”; thuận theo ý quan thầy thì sống, nghịch ý thì vong mạng. Khi anh em Diệm – Nhu ngày càng theo đuổi các chính sách độc tài gia đình trị, nhận trợ giúp về mọi mặt mà không thực hiện đúng ý đồ của quan thấy Mỹ, số phận của họ coi như đã được an bài, chỉ chờ “thời cơ” hành quyết…

Vụ đảo chính bất thành tháng 11/1960

Mối quan hệ giữa CIA và các cơ sở khác của Mỹ với Diệm - Nhu ngày càng xấu đi sau thời Lansdale- Harwood. Năm 1958 - 1959, CIA liên tục phát hiện những trò tiểu xảo của Nhu và SEPES do Trần Kim Tuyến lãnh đạo nhắm vào các sĩ quan của Trạm. Đến tháng 7/1958, CIA đã có nhiều bằng chứng cho thấy chính quyền Diệm - Nhu đang chủ trương chống lại phái bộ Mỹ, kể cả các liên lạc viên CIA.

Trạm CIA tại Sài Gòn cho biết, trong một cuộc họp nội các Chính phủ vào đầu tháng 1/1959, Diệm đã cảnh giác các quan chức của mình về nguy cơ bị lật đổ "thậm chí bởi chính những người bạn viện trợ cho chúng ta", có ý ám chỉ người Mỹ, và căn dặn họ không nên tiết lộ các bí mật quốc gia hoặc các kế hoạch hành động mật.

Thái độ dè chừng, giữ khoảng cách như thế, cùng với việc Diệm ngày càng trở nên độc đoán, bảo thủ, khó tiếp cận và khó thuyết phục trong khi mục tiêu chống Cộng đang ngày càng gặp nhiều khó khăn đã khiến cho quan hệ ấy trở nên trầm trọng hơn. Và người Mỹ một lần nữa lại nghĩ đến nước cờ "thay ngựa giữa dòng".

Khoảng nửa cuối năm 1960, CIA bắt đầu đánh hơi được mầm mống nổi loạn chống Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn ngày càng tăng. Tháng 9, CIA bắt đầu tập hợp thông tin về thành phần bất mãn trong hàng ngũ tướng tá quân đội.

Tháng 10, CIA cố gắng khai thác tướng Trần Văn Minh và các nguồn khác nhằm tìm kiếm thành phần tham gia đảo chính. George Carver, một sĩ quan CIA tại Trạm Sài Gòn, móc liên lạc với chính trị gia Hoàng Cơ Thụy (đảng Đại Việt) nhằm mở rộng nguồn thông tin.

Bất chấp những cố gắng "bắt mạch" nhưng CIA vẫn không nhận được dấu hiệu báo trước về vụ đảo chính ngày 11/11/1960 của nhóm quân nhân. Cũng như mọi người bình thường khác, Trạm CIA chỉ nhận biết tình hình đảo chính khi nghe thấy tiếng xe tăng chuyển động vào sáng sớm hôm 11/11, kèm theo đó là tiếng súng nổ vang rền hướng vào Dinh Gia Long.

George Carver cố gắng liên lạc điện thoại với Hoàng Cơ Thụy và được mời đến gặp một nhóm chính khách dân sự đang hy vọng được quân đội đưa lên nắm chính quyền thay Ngô Đình Diệm.

Được phép của Colby, Carver lái xe đến nhà Thụy. Carver mang theo một sứ mệnh là gây sức ép buộc nhóm đảo chính không được tấn công Dinh Gia Long như đã tuyên bố. Carver còn ra sức thuyết phục nhóm Hoàng Cơ Thụy thương lượng với Diệm để tìm giải pháp chính trị.

Ở một mũi khác, Russ Miller - sĩ quan CIA phụ trách các chiến dịch phá hoại miền Bắc - cũng lái xe Jeep đến Dinh Gia Long cùng với phiên dịch Dick Bender. Súng đã ngừng nổ, hai bên đang ở thế giằng co.

Cánh báo chí chen lấn ở trước Dinh để nghe ngóng tin tức. Miller không hơn gì họ, mù tịt về kẻ chủ mưu. Người duy nhất Miller có thể khai thác tin tức là bác sĩ Phan Quang Đán - phát ngôn viên của phe đối lập - thì chỉ hẹn sẽ tổ chức một cuộc họp báo tại Tổng hành dinh Bộ Tổng tham mưu liên quân (JGS) gần sân bay Tân Sơn Nhất. Miller lại phóng xe Jeep đến sân bay.

Miller được lệnh của Trạm CIA tránh can dự "cố vấn" này nọ mà chỉ việc lặng lẽ theo dõi diễn biến rồi báo cáo về Trạm. Miller tự giới thiệu mình là người từ Tòa đại sứ Mỹ đến. Gặp Đại tá không quân Nguyễn Chánh Thi, Miller lại có được kênh cập nhật thông tin khá đầy đủ và liên tục về tình hình đảo chính.

Trong khi đó, biết được CIA đang phái người theo dõi sự việc ở cả 2 chiến tuyến, Đại sứ Elbridge Durbrow vào cuộc, tận dụng phương tiện làm việc của Trưởng trạm Colby để theo dõi báo cáo từ Carver và Miller, đồng thời liên lạc điện thoại với Dinh Gia Long.

Đại sứ Henry Cabot Lodge.

Nắm được chủ trương chơi "hàng hai" đối với sinh mệnh chế độ Diệm - Nhu của Bộ Ngoại giao Mỹ, Durbrow không trực tiếp bày tỏ sự ủng hộ nào với Diệm - Nhu mà chỉ đưa ra lời khuyên ngài Tổng thống Việt Nam Cộng hòa nên chấp nhận thương lượng với nhóm quân nhân. Chính sự can thiệp này của đại sứ Durbrow đã góp phần giúp cho chính quyền Ngô Đình Diệm thoát nạn.

Cánh quân nhân đảo chính bắt đầu phân hóa giữa tấn công quân sự với việc thương lượng một cách êm thấm. Và họ dễ dàng bị tác động bởi sức ép của người Mỹ. Tuy vậy, nhóm quân nhân vẫn trong tư thế sẵn sàng tấn công trong khi cuộc thương lượng kéo dài suốt ngày 11 cho đến tận khuya, rạng sáng ngày 12/11.

Diệm có vẻ chấp nhận một số nhượng bộ, nhưng thực chất ông ta đang dùng cuộc thương lượng để "câu giờ" chờ quân tiếp viện đến "cứu giá" của Đại tá Trần Thiện Khiêm. Russ Miller thông báo cho Đại tá Thi biết quân tiếp viện của Khiêm đang đến. Thi hiểu như vậy là trò chơi đã kết thúc, đành kéo quân đi.

Sau vụ đảo chính hụt, nhân vật chính trị số 1 Hoàng Cơ Thụy đã phải xin tị nạn trong Tòa đại sứ Mỹ và được Mỹ đưa sang Philippines rồi chạy trốn sang tận bên Nhật Bản. Riêng Carver, do bị Trần Kim Tuyến phát hiện có liên hệ với nhóm đảo chính nên bị chính quyền Diệm - Nhu phản đối quyết liệt, cuối cùng phải rời khỏi Sài Gòn. Chỉ có Miller và Lucien Conein bình an. Từ vụ việc này, giữa anh em Diệm - Nhu và phái bộ Mỹ, trong đó có Trạm CIA, càng mất tin tưởng nhau hơn.--PageBreak--

Ngày định mệnh

Kể từ sau vụ đảo chính đó, Diệm - Nhu ngày càng gây mất lòng tin nơi người Mỹ. Tổ chức tình báo Trung ương (CIO) ra đời từ giữa năm 1960 nhưng đến tháng 5/1962 mới được Diệm ký lệnh thành lập chính thức. Đã vậy, các hoạt động thu thập tin tình báo do PSB thực hiện vừa nghèo nàn lại còn "chỏi" nhau kịch liệt giữa phe của Trần Kim Tuyến và phe của CIA.

Tình hình này khiến cho Trưởng trạm CIA John Richardson nổi giận, than phiền thẳng thắn với Nhu. Chưa hết, sau vụ đảo chính tháng 11/1960 và thêm một vụ đánh bom Dinh Gia Long vào tháng 2/1962, Nhu quy trách nhiệm cho người Mỹ nên càng tỏ thái độ chống Mỹ mạnh hơn. Trước thái độ chống Mỹ của Nhu, Trạm CIA tăng cường các mối quan hệ với phe đối lập.

Mùa xuân 1963, CIA hầu như có mặt khắp mọi ngõ ngách xã hội miền Nam Việt Nam, liên hệ với tất cả các phe, nhóm chống Diệm - Nhu. Giữa năm 1963, tình hình diễn biến ngày càng xấu. Phái bộ Mỹ phản đối quyết liệt chính sách đàn áp Phật giáo của chính quyền Sài Gòn.

Cuối tháng 6, CIA bắt đầu "ngửi" thấy "hơi hám" của một kế hoạch đảo chính mới. Lần này không chỉ có một mà có tới nhiều nhóm cùng muốn đảo chính. Các nguồn thông tin của CIA đã xác định được nhóm thứ nhất có Trần Kim Tuyến tham gia.

Nhóm thứ 2 là các tướng lĩnh quân đội. Kỳ lễ mừng ngày Quốc khánh Hoa Kỳ ngày 4/7/1963, Tòa đại sứ Mỹ tổ chức tiệc chiêu đãi, có mời tất cả các tướng tá quân đội Sài Gòn. Diệm cho phép các tướng thân tín của mình tham dự. Lucien Conein, người từng nhiều năm làm việc với Lansdale trong Tòa đại sứ, giờ đây trở thành đầu mối liên lạc chính giữa CIA với các tướng lĩnh quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Sau buổi tiệc, Conein đi theo các tướng tá đến một khách sạn ở khu trung tâm Sài Gòn để nhậu tiếp. Tại đây, Conein được tướng Trần Văn Đôn bật mí cho biết ông ta và một nhóm sĩ quan cao cấp dự định lật đổ Tổng thống Diệm. Thông tin này được Conein báo cáo với Richardson và Đại sứ Henry Cabot Lodge.

Riêng nhóm thứ 3, tướng Trần Văn Minh tiết lộ rằng, Ngô Đình Nhu âm mưu đảo chính Diệm để tiếm quyền! Nắm được thông tin Nhu muốn đảo chính, Trạm CIA bắt đầu xem xét liệu ông ta có thể thay thế anh mình lãnh đạo miền Nam Việt Nam hay không.

Phát hiện Nhu có quá nhiều trở ngại khó ngồi yên trên ghế Tổng thống, nên CIA quyết định gạt bỏ Nhu và chọn Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ lên thay nếu Diệm bị lật đổ (thực ra Phó tổng thống Thơ cũng tham gia lập kế hoạch đảo chính cho nhóm sĩ quan quân đội).

Tháng 8/1963, liên lạc giữa Trạm CIA và Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn với Tổng hành dinh và Washington cũng như giữa CIA và Tòa đại sứ Mỹ với các tướng lĩnh diễn ra liên tục. Chọn lựa ban đầu (Nguyễn Ngọc Thơ) đã bị hủy bỏ.

Ngày 24/8, Washington quyết định phải loại bỏ Nhu. Ngày 25/8, William Colby, lúc này là Trưởng Phân cục Viễn Đông của CIA, đánh điện cho Richardson và Đại sứ Lodge yêu cầu phải ép Diệm trao quyền hành lại cho quân đội kiểm soát, đồng thời Diệm và Nhu sẽ được đưa về an trí ở Đà Lạt. Richardson và Lodge đều không đồng tình với cách giải quyết của Colby vì tính khả thi không cao lại tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn mới.

Richardson cho rằng không thể bàn bạc cơ chế đảo chính Diệm mà không tham khảo ý kiến các tướng; mặt khác Richardson muốn CIA cũng phải tham gia. Đại sứ Lodge cũng nhận được điện từ Washington cũng nghĩ nên để CIA đưa ra làm trung gian liên lạc với các tướng.

Liên lạc viên CIA Al Spera bay lên Pleiku gặp tướng Tư lệnh Vùng 2 Nguyễn Khánh trong khi Conein đi gặp tướng Khiêm ở Sài Gòn để tham khảo ý kiến. Từ đây, Conein trở thành kênh thông tin liên lạc chính giữa Chính phủ Mỹ với nhóm tướng lĩnh đảo chính.

Ngô Đình Diệm được phát hiện chết trong tư thế bị trói tay.

Đầu tháng 10/1963, Conein gặp tướng Trần Văn Đôn tại sân bay. Vài ngày sau, Conein gặp tướng Dương Văn Minh (Minh lớn) để tiếp tục thảo luận về cách người Mỹ có thể hỗ trợ quân đảo chính. Tướng Minh yêu cầu Mỹ tiếp tục cung cấp viện trợ (với mức 1,5 triệu USD/ngày) và không cản trở. Conein không hứa hẹn gì, chỉ bảo đảm ủng hộ đảo chính. Ngày 5/10, John Richardson bị triệu tập về nước, giao nhiệm vụ tại Trạm CIA lại cho David Smith. Lúc này, việc chuẩn bị đảo chính đang tăng tốc.

Ngoài nhóm tướng lĩnh, CIA còn đồng thời theo dõi nhóm đảo chính thứ 2 của Trần Kim Tuyến, có sự tham gia lãnh đạo của Đại tá tình báo “phía bên kia” Phạm Ngọc Thảo. Nhóm này không ấn định ngày thực hiện đảo chính (bất cứ khi nào có đủ vũ khí và phương tiện chiến đấu), nhưng nhóm của tướng Đôn thì ra thời hạn không chậm quá ngày 2/11.

Conein là đầu mối liên lạc của CIA với các tướng lĩnh, cho nên ông ta luôn sát cánh bên cạnh các tướng lĩnh để thảo luận những vấn đề cần thiết, truyền đạt, trao đổi những chủ trương, ý muốn của Washignton đối với cuộc đảo chính. Những ngày cuối tháng 10, tin đồn về đảo chính đã tràn ngập Sài Gòn, phần nhiều do Trạm CIA tung ra.

Sáng sớm ngày 1/11, Thiếu tướng Richard Stilwell, Tổng tư lệnh Phái bộ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV), triệu tập Trưởng trạm CIA David Smith đến văn phòng để khuyến cáo về việc này. Khoảng 13h30, tướng Đôn đã cho người đến báo cho Conein biết đảo chính đang diễn ra và yêu cầu Conein có mặt tại Tổng hành dinh Bộ Tổng tham mưu liên quân (JGS), nơi đặt bản doanh chỉ huy đảo chính để theo dõi nắm tình hình.

Conein ở lại Tổng hành dinh JGS đến ngày hôm sau, liên tục báo cáo về Trạm CIA những thông tin về cuộc đảo chính mà ông ta được tướng Đôn và tướng Minh lớn cung cấp. 6h20' sáng hôm sau (2/11), Diệm đã gọi điện cho Minh lớn xin đầu hàng với điều kiện được ra đi an toàn cùng với gia đình.

Tướng Đôn và tướng Khiêm yêu cầu Conein cung cấp một máy bay, và Conein gọi điện về Tòa đại sứ. David Smith cho rằng có thể Pháp sẽ cho Diệm tị nạn và hứa sẽ đưa máy hay tới rước trong vòng 24 giờ. Conein trở lại tổng hành dinh JGS vào 11h trưa và bất ngờ nhận được tin anh em Diệm - Nhu đã bị hạ sát.

Với sự sụp đổ chế độ Diệm - Nhu, coi như chương đầu tiên trong toàn bộ lịch sử can thiệp của CIA vào miền Nam Việt Nam đã khép lại với một nỗi thất bại ê chề - đánh giá của sử gia Thomas L. Ahern Jr.

Được Tổng thống Eisenhower dành cho nhiều ưu tiên trong hoạt động tại miền Nam Việt Nam, CIA đã tiến hành một cuộc thử nghiệm xây dựng chế độ chống Cộng tại đây nhưng không thành công. Có khá nhiều bài học đằng sau thất bại này. Nhưng liệu CIA có rút ra được bài học nào không cho giai đoạn tiếp theo với các tướng lĩnh đã tham gia lật đổ Diệm?

Trương Hùng (lược dịch)
.
.