Mạng lưới điệp viên đầu tiên của Israel

Thứ Bảy, 09/03/2019, 09:49
Tháng 9-1917, Chiến tranh Thế giới đang sắp kết thúc. Sarah Aaronsohn cảm giác được cuộc chơi đã kết thúc với mình. Bà biết một đội quân của quân chiếm đóng Thổ Nhĩ Kỳ từ căn cứ ở thành phố Haifa thuộc đất nước Palestine đang trên đường đến Zikhron Yaakov, nơi bà đang cư trú, để tìm kiếm và bắt giữ bà. Thời điểm đó đang vào mùa thu hoạch, người dân Zikhron Yaakov đang tưng bừng mở hội, nhưng tất cả bỗng im bặt khi tiếng gầm rú của xe quân sự Ottoman tiến vào.


Khi quân Ottoman đến, Sarah biết bà không thể nào trốn thoát được. Bà không thể bỏ chạy khỏi nhà, vì bà phải ở lại để chăm sóc người cha già góa bụa. Tài liệu lịch sử không nêu rõ làm thế nào quân đội Ottoman biết bà phản bội họ làm gián điệp cho quân đội Anh, cũng không rõ là họ đã biết nhiều hay ít về các hoạt động tình báo của bà và người anh trai Aaron hơn bà 13 tuổi.

Năm đó Sarah Aaronsohn 27 tuổi. Bà là con gái của một trong những gia tộc danh giá nhất xứ Zikhron Yaakov, thời đó là thuộc địa của đế quốc Ottoman. Họ thuộc nhóm người Do Thái đầu tiên từ Romania di cư đến vùng đất này vào những năm 1880 và khai sinh ra khu định cư Zikhron Yaakov của người Do Thái, nay thuộc Israel. Cư dân trong vùng hầu như không hay biết rằng ngôi nhà gia đình Aaronsohn cư ngụ là trung tâm điều hành của một mạng lưới điệp viên do Sarah Aaronsohn chỉ huy, tự xưng là NILI – viết tắt của cụm từ tiếng Do Thái “sức mạnh của Israel là chân thực”. Đây có thể được xem là mạng lưới tình báo đầu tiên của Israel.

Bà Sarah Aaronsohn.

Ở Ai Cập, tướng Edmund Allenby, tư lệnh quân đội Anh ở vùng Trung Đông và Bắc Phi, đã tập hợp một lực lượng hỗn hợp gồm quân đội Anh, Australia và các nước Ảrập để chuẩn bị cho một chiến dịch cuối cùng tiêu diệt đế chế Ottoman, đánh đuổi họ ra khỏi Ai Cập, Gaza và dọc theo hành lang đến Jerusalem, đánh thọc sang Damascus.

Trong hơn một năm, các chỉ huy quân đội Anh đóng tại Cairo (Ai Cập) đều đặn nhận được thông tin tình báo chính xác về hoạt động của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ trên toàn đất nước Palestine, nay là Israel và các vùng lãnh thổ Palestine. Những thông tin quý giá này được thu thập bởi NILI.

Thời điểm Sarah đợi quân Ottoman đến để bắt mình, thì Aaron đang ở London để chứng kiến việc ký kết một thỏa ước lịch sử giữa chính phủ Anh và ban lãnh đạo Zionist quốc tế, trong đó phân định việc cư trú của người Do Thái và các dân tộc vùng Trung Đông. Theo đó, Palestine sẽ là nơi cư trú của dân tộc Do Thái.

Trước đó khoảng 18 tháng, trong chuyến đầu tiên đến London, Aaron đã tỏ ra khá bàng quan với phong trào Zionist quốc tế. Mục đích thật sự của Aaron khi đến London chỉ là để được nghe các lãnh đạo tình báo Anh đánh giá về chất lượng và giá trị của mình. Chính vì thế mà các lãnh đạo Zionist quốc tế, như Chaim Weizmann không ưa thích Aaron, họ thậm chí còn yêu cầu tình báo Anh cảnh giác với Aaron.

Aaron khi đó đã nổi tiếng trên thế giới với những hoạt động tình báo đấu tranh cho sự nghiệp phục quốc Zionist. Aaron đã tận dụng cơ sở nghiên cứu nông nghiệp của mình tại Athlit, nằm dọc duyên hải gần thành phố Haifa, để làm bình phong che đậy hoạt động tình báo. 

Ban đêm, các tàu chiến Anh đến neo đậu ngoài khơi Athlit để thu nhận nhiều thùng tài liệu tình báo được các thuyền chài nhỏ mang đến. Những thông tin tình báo đó được mang về bộ chỉ huy ở Cairo, nguồn thông tin được mặc định là từ “một cư dân ở Athlit”. Tình báo Anh không chỉ tin tưởng Aaron mà còn đánh giá cao giá trị và năng lực tình báo của ông. Sir Mark Sykes, quan chức tham mưu chiến lược của tình báo Anh, đã rất ấn tượng bởi kiến thức khoa học và trí thông minh của Aaron.

Quả thật thế. Aaron đã hết sức kiên trì để thuyết phục tướng Jemal Pasha, tướng quân quyền lực nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, rằng mình nên đến Berlin, Đức (khi đó ủng hộ đế quốc Ottoman trong cuộc chiến) để gặp gỡ một số đồng nghiệp khoa học nhằm thảo luận về tương lai ngành nông nghiệp ở Palestine. 

Tướng Edmund Allenby, chỉ huy quân đội Anh tại Cairo.

Nhưng khi đến Berlin, sau khi đã bí mật liên lạc với tình báo Anh, Aaron tiếp tục thuyết phục người Đức để cho mình tiếp tục sang Mỹ (thời điểm đó là tháng 10-1916, Mỹ chưa tham gia Chiến tranh Thế giới lần I) nghiên cứu khoa học và được đồng ý. Một điều thuận lợi cho Aaron là thời điểm đó, ông được người Mỹ biết đến nhiều vì những nghiên cứu khoa học về nông nghiệp, và chính các nhà quản lý ngành nông nghiệp Mỹ đã mời Aaron sang Mỹ, tạo cái cớ hoàn toàn hợp lý cho ông. 

Tuy nhiên, Aaron không đi thẳng đến Mỹ ngay. Ông đến Copenhagen (Đan Mạch) và lên tàu Oskar II để đi sang Mỹ. Nhưng, theo kế hoạch đã ước định sẵn, chuyến tàu đó đã bị Hải quân Hoàng gia Anh chặn đường khi vừa đi qua Đảo Orkney, phía Bắc Scotland. Với lý do Aaron đi tàu lậu (không mua vé), thuyền trưởng tàu Oskar II đồng ý bàn giao Aaron cho tàu Hải quân Anh, và nhờ đó Aaron được đưa đến London. Toàn bộ màn kịch này được dàn dựng nhằm che mắt tướng Jemal Pasha, để ông ta không nghi ngờ Aaron làm việc cho tình báo Anh.

Vào những năm 1880, Zikhron Yaakov và các khu vực định cư lân cận được tài trợ bởi chi nhánh tại Pháp của hệ thống ngân hàng thuộc gia tộc Rothschild (tên Yaakov được đặt theo tên ông Jacob, bố của Nam tước Edmund de Rothschild). Cơ sở nghiên cứu của Aaron ở Athlit cũng được Rothschild tài trợ, đã góp công to lớn làm thay đổi hoàn toàn ngành nông nghiệp trong vùng.

Khi Chiến tranh Thế giới lần I lan đến Trung Đông vào năm 1914, Aaron khi đó là công dân đế quốc Ottoman, bị bắt đi lính trong quân đội Thổ Nhĩ Kỳ. Nhờ các mối quen biết, Aaron đã “chạy chọt” và được tướng Jemal Pasha cho miễn đi lính, trở về tiếp tục công việc tại trại nghiên cứu ở Athlit. Đúng thời điểm đó, một thảm họa thiên nhiên lại ập đến: Đại dịch châu chấu cắn phá sạch mùa màng của toàn xứ Palestine, đúng như lời tiên tri trong Kinh thánh. Và nó được gia tộc Aaronsohn xem như “điềm báo” trước cho sự suy vong của đế chế Ottoman. 

Quân đội Ottoman nổi tiếng tàn ác, đã lấy hết lương thực để nuôi quân, khiến cho dân chúng trong vùng đói kém, ai ai cũng oán hận. Hai anh em Aaron và Sarah xác định rằng tương lai của Palestine nằm ở việc hợp cùng với quân Đồng minh đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ, và rằng họ cần phải sử dụng tình báo làm vũ khí để đạt mục tiêu đó.

Đầu tiên, mạng lưới tình báo của anh em nhà Aaronsohn được hình thành và chỉ huy bởi một người tên là Absalom Feinberg, 25 tuổi, sinh trưởng tại Palestine, gia đình có nhiều mối quan hệ với người Ảrập. Feiberg sử dụng giấy tờ giả để đi tàu thủy đến Port Said, Ai Cập và trình bày đề xuất kế hoạch tình báo với các chỉ huy quân đội Anh. Ông may mắn gặp được một sĩ quan tình báo giàu trí tưởng tượng là trung úy Leonard Woolley. Wooley nhận thấy các điệp viên NILI đang ở trong điều kiện độc nhất vô nhị để khai thác và cung cấp cho quân đội Anh “mỏ vàng” thông tin về quân đội Thổ Nhĩ Kỳ.

Leonard Woolley.

Hai tuần sau khi Woolley quay trở về Palestine, một tàu chiến Anh được điều đến vùng biển Địa Trung Hải ngoài khơi Palestine và phái một thuyền nhỏ cập vào đất liền để thu nhận mẻ thông tin tình báo đầu tiên. Cách thu thập tình báo này hoạt động tốt được một thời gian, nhưng đến khoảng cuối năm 1916, quân Thổ Nhĩ Kỳ phát hiện và đánh chìm một tàu chiến Anh, bắt sống Woolley. 

Kể từ đó, quân Thổ bắt đầu tuần tra vùng ven biển Palestine thường xuyên hơn khiến cho việc giao nhận thông tin không thể thực hiện được. Đến nước này, Feinberg quyết định phải tự mình mang thông tin đến Ai Cập giao cho quân đội Anh. Ông cải trang làm một người Ảrập di cư đi bằng đường bộ sang Ai Cập qua ngả biên giới Gaza. Tuy nhiên, trên đường đi, Feinberg không may gặp phải những người Ảrập di cư thật và bị họ chặn đường cướp của và giết chết.

Cái chết của Feinberg là một mất mát lớn cho mạng lưới tình báo NILI, và mạng lưới này ngay lập tức được tiếp quản bởi Sarah Aaronsohn. Với sắc đẹp tự nhiên như một hoa hậu, Sarah đã mau chóng thu hút sự quan tâm của nhiều người. Vào thời điểm Sarah tiếp quản mạng lưới NILI, hoạt động tình báo đã trở nên nguy hiểm hơn. Không chỉ là việc thu thập thông tin tình báo mà cả việc mang thông tin đó đến Ai Cập để giao cho quân đội Anh cũng ngày càng gặp nhiều trắc trở hơn. 

Người Anh khuyên Sarah sử dụng bồ câu để chuyển thông tin đã được mã hóa thật kỹ. Vào mùa xuân năm 1917, Sarah tìm đường sang Ai Cập để hội ngộ anh trai Aaron. Quân đội Anh đã có kế hoạch tấn công đế quốc Ottoman vào mùa thu, và mạng lưới NILI đã cung cấp những thông tin vô cùng quý giá về công tác phòng thủ của Thổ Nhĩ Kỳ. Tháng 6 cùng năm, Sarah quyết định quay trở về quê nhà và thực hiện đợt thu thập tình báo cuối cùng, còn Aaron thì trực tiếp báo cáo chi tiết các thông tin tình báo cho tướng Allenby. Aaron đã cố can ngăn em gái đừng trở về, vì ông hiểu mức độ nguy hiểm đang rất cao, nhưng Sarah không nghe.

Đối với quân đội Anh, mạng lưới tình báo NILI là một “báu vật”, là tai, mắt khắp mọi ngõ ngách ở vùng đất Palestine, trong lòng quân đội Ottoman, thu thập những thông tin chi tiết giúp quân đội Anh có cái nhìn rõ hơn, sâu hơn về cách thức quân đội Thổ Nhĩ Kỳ rút khỏi bán đảo Ảrập, cách họ chuẩn bị để phòng thủ Jerusalem, và xa hơn là Damascus ra sao.

Vào khoảng đầu tháng 9-1917, Tổng đốc Thổ Nhĩ Kỳ phụ trách vùng Caesarea nằm ở vùng duyên hải phía nam Athlit đang cho bồ câu ăn ở sân nhà thì phát hiện có một con chim bồ câu lạ sà vào, có lẽ nó chỉ dừng chân nghỉ trên đường đi ngang qua. Một chân con chim bị băng lại. Thế là ông bắt lấy nó và gỡ băng trên chân nó ra, nhặt lấy một mảnh giấy. 

Ông phát hiện trên mảnh giấy có viết một thông điệp đã được mã hóa mà ông không đọc được. Ông đoán con chim bay đến chắc chắn là quân đội Anh ở Ai Cập. Nhưng ai đã thả nó đi? Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ không thể giải mã được, vì thế họ chuyển mẩu giấy cho chỉ huy quân Đức đang hợp tác bên cạnh tướng Jemal Pasha ở Damascus. Quân đội Đức giải mã thành công, và nơi xuất phát của chim đã lộ ra: Zikhron Yaakov.

Người Thổ Nhĩ Kỳ không xác định Sarah là chỉ huy của mạng lưới điệp viên NILI. Khi đến gặp Sarah, họ cố công tìm kiếm một điệp viên NILI khác tên là Joseph Lichansky. Nhưng Sarah quyết liệt từ chối, không nói ra. Nghi ngờ Sarah che giấu Lichansky, bọn lính Thổ bắt bố Sarah tra tấn để ép bà khai ra, nhưng Sarah quyết không nói. Đến lượt Sarah bị tra tấn dã man bằng nhục hình đau đớn nhất, nhưng bà cũng không khai. Rốt cuộc người Thổ Nhĩ Kỳ phải thả Sarah, cho bà về nhà nhưng giám sát chặt bằng hình thức giam lỏng.

Biết mình không thể tiếp tục hoạt động tình báo, cũng khó tránh khỏi những đợt tra tấn khảo cung sắp tới, Sarah dùng súng lục tự sát trong phòng ngủ. Bà để lại một bức thư kể lại việc mình và bố bị tra tấn dã man bởi quân Thổ Nhĩ Kỳ. Hai ngày sau khi Sarah chết, một bức điện tín của ông Chaim Weizmann gửi từ London đến để báo tin cho Sarah biết ông và các lãnh đạo Zionist khác đã tìm được nơi cư trú cho người Do Thái ở Palestine, dưới sự bảo hộ của chính phủ Anh.

Nguyên Khang (tổng hợp)
.
.