Chuyện lạ quanh ngôi cổ tự

Thứ Sáu, 04/04/2014, 20:15

Không ai biết chính xác ngôi chùa cổ Bàu Đưng (tức chùa Phước Định) nằm ẩn mình trong một khu vườn u tịch ở ấp An Định thuộc xã vùng sâu An Ninh Đông (huyện Đức Hòa, tỉnh Long An) có từ thuở nào. Căn cứ vào dấu tích nhiều giai thoại xưa còn lưu dấu trên thân cặp cây củ chi đại thụ và những pho tượng cổ người ta áng chừng ngôi chùa xuất hiện trước khi Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh di binh xác lập chủ quyền phương Nam vào năm 1698. Điều đó có nghĩa là ngôi chùa có từ thuở lưu dân Việt khai phá rừng già lập ấp cách nay hơn 400 năm.

Giai thoại cọp dữ

Những bậc kỳ lão địa phương thường truyền tụng cho con cháu nhiều giai thoại liên quan đến lịch sử khẩn hoang vùng đất này. Những giai thoại ấy kể rằng, xưa kia nơi đây là vùng rừng rậm hoang vu, con người phải giành đất với cọp dữ. Thuở đó, chuyện cọp vồ người xảy ra hằng ngày.

Để cứu dân làng, một võ sư ra tay bắt cọp. Ông dùng cây rừng dựng một cái rọ làm bẫy rồi chui vào ngồi làm mồi nhử cọp. Bắt hơi người, con cọp cái vào rọ dính bẫy bị ông giết chết. Trong lúc loay hoay lột da con cọp cái, ông bị con cọp đực bất thần tấn công và ăn thịt mất xác, chừa lại thủ cấp.

Thương tiếc ông, người dân gọi cây cầu - nơi ông dựng rọ bắt cọp - là cầu Ông Rọ. Cầu Ông Rọ cách ngôi chùa Bàu Đưng khoảng 2 cây số. Khắp vùng đất này có hàng chục địa chỉ mang nhiều giai thoại liên quan đến cọp như chuyện Ông Rọ.

Ông Phạm Văn Phước, sinh năm 1956, giám tự ngôi chùa cổ đưa chúng tôi ra vườn xem hai cây đại thụ còn in dấu móng cọp. Cặp đại thụ mọc hai phía tả hữu, cách ngôi chánh điện khoảng 70 mét.

Có thể nói là cặp củ chi đại thụ cao niên nhất, có chu vi gốc lớn nhất Việt Nam. Mỗi gốc rẽ nhánh thành nhiều thân cây. Gốc cây hướng tây khoảng 7 vòng tay người. Gốc cây hướng đông khoảng 8 vòng tay người.

Ở giữa gốc hướng đông có một cái bọng rộng có thể chứa được 4 người ngồi. Chỉ vào cái bọng, ông giám tự Phước cho biết: "Ông nội tôi kể, ngày xưa cái bọng cây này chứa cả một gia đình cọp trắng khôn như người. Chúng về đây làm tổ để nghe kinh Phật, bảo vệ sư trụ trì. Một buổi trưa, bà mụ chuyên đỡ đẻ cho dân làng đang nằm ngủ trước hiên nhà thì bị cọp đực vồ. Tưởng là hết số sống, bà mụ nằm im chịu trận. Không ngờ cọp không ăn thịt bà mụ mà tha về tổ nơi gốc củ chi thả xuống. Cọp vừa nhả ra, bà bỏ chạy. Nhưng cọp đực cứ giơ vuốt đẩy bà vào gốc cây. Sau vài lần bị cọp đực lùa vào bà mới trông thấy con cọp cái đang nằm thoi thóp với cái bụng phình trướng. Nhận ra con cọp cái đang đau dạ, đẻ khó, bà chui vào bọng cây giúp nó. Đỡ đẻ xong, bà mụ đi về".

Giải thích về giai thoại, ông Phước nói: "Ông nội kể sao, tôi kể lại y vậy. Có lẽ đó là sự trùng hợp. Cũng có thể, khi cọp cái nằm ổ, cọp đực đi bắt mồi cho cọp cái ăn. Do đẻ khó, cọp cái nằm thoi thóp chờ chết, không ăn thịt nổi. Nhờ bà mụ đỡ đẻ, nó sống. Ơn bà, nó không ăn thịt".

Ông Phước chỉ dấu móng cọp trên thân đại thụ.

Ông Phước không tin chắc giai thoại cọp rước mụ đỡ đẻ cho "vợ" có thật bao nhiêu phần trăm nhưng ông tin chắc bọng cây củ chi chính là tổ cọp. Chỉ vào những vết sẹo sần sùi trên thân cây đại thụ, ông Phước khẳng định đó là những vết xước do cọp mài móng khi xưa. Chỉ vào một vết sẹo hình thoi, ông Phước cho biết, đó là dấu tích một chiếc móng cọp gãy dính chặt vào thân cây. Bì cây dần dà phủ lấp chiếc móng cọp vào bên trong.

Do bầy cọp "ẩn tu" không bắt người ăn thịt, nên để tỏ lòng "tôn trọng", người dân quanh vùng lập 1 cái am cạnh gốc củ chi để thường xuyên tế heo cúng cọp. Không ai nhớ bầy cọp rời đi từ lúc nào. Sau nhiều lần trùng tu, cái am tế heo cúng cọp dần dà thành ngôi miếu thờ cọp. Sau này, người dân vùng khác đến dâng cúng tượng ngũ vị nương nương. Thế là ngôi miếu trở thành ngôi miếu thờ cúng "bà ngũ hành" và cọp thần.

Với người dân địa phương, ngôi miếu là nơi nương tựa niềm tin. Họ tin rằng ngôi miếu linh thiêng, thành tâm cầu khấn điều gì cũng được toại nguyện.

Lại có chuyện rằng: Nhiều người dân địa phương đã từng chứng kiến nhiều hiện tượng tâm linh khó lý giải.

Những pho tượng Phật có nhân trung dày và cao khác lạ.

Cách nay vài năm, khoảng sân rộng trước miếu được thanh niên địa phương làm sân bóng. Một hôm, say sưa chơi, anh H.N., con trai ông G. vô tình sút bóng bay thẳng vào ngôi miếu. Kết thúc trận đấu, vừa về đến nhà, anh H.N. lăn đùng ra ôm bụng giãy đành đạch như sắp chết. Gia đình hoảng hốt gọi xe chở đi bệnh viện cấp cứu. Trong khi chờ xe đến, bà mẹ lần ra miếu đốt nhang khấn vái, cầu xin. Không ngờ hiệu nghiệm, xe chưa đến, anh H.N. tỉnh dậy như không hề bị gì cả. Từ đó, trai làng không dám ra khoảng sân trước miếu đá bóng nữa.

Năm 2009, ông V. cư ngụ ở Hậu Nghĩa gặp vận hạn, làm ăn thất bại. Đang trong cơn thất chí, ông tìm đến chùa Bàu Đưng lễ Phật. Nghe đồn miếu thờ cọp linh thiêng, ông V. ghé vào khấn xin lộc. Thấy miếu cũ kỹ, ông khấn khi nào có tiền sẽ trùng tu. Chiều hôm đó, ông trúng 10 tấm vé số độc đắc. Nhớ lời khấn, ông trở lại thuê thợ xây sửa miếu lớn hơn.

Trước năm 1975, lính Việt Nam Cộng hòa đóng đồn cách chùa Bàu Đưng khoảng 5km. Từ trong đồn nhìn ra, 2 gốc củ chi đại thụ trở thành tiêu điểm tác xạ pháo cối. Dù biết bộ đội chủ lực của ta trú đóng trong chùa nhưng lính trong đồn chỉ dám bắn hú dọa vòng ngoài chứ không dám bắn đạn cối vào. Trải qua gần nửa thế kỷ chiến tranh, chịu hàng trăm trận đánh lớn nhỏ, ngôi chùa và 2 gốc củ chi đều nguyên vẹn.

Có lần, viên sĩ quan chỉ huy mới đổi đến, không tin ngôi miếu linh thiêng. Khi hành quân qua miếu, hắn ta rút súng ngắn ra thách "thần cây, miếu cọp có ngon hiển linh cho tao coi". Thách xong, hắn ta bắn một phát vào thân cây. Viên đạn cắm vào cây bật ra miếng dăm găm vào chân hắn ta đổ máu. Cho rằng, đó là sự ngẫu nhiên, hắn bắn phát thứ 2, mảnh dăm cây lại găm vào tay tứa máu.

Tượng Phật đa thủ mang nét Amaraviti.

Tưởng vết xước ngoài da không hề hấn gì, hắn ta băng bó tạm rồi tiếp tục xua lính hành quân. Không ngờ nửa giờ sau hắn ta lên cơn co giật. Lính phải vác hắn ta chạy về đồn rồi gọi trực thăng đưa đi cấp cứu.

Những bức tượng lạ trong ngôi cổ tự

Ngôi chùa Bàu Đưng nằm cô tịch ở giữa và chéo góc hai gốc đại thụ tạo thành hình tam giác cân. Không gian tĩnh lặng giữa khu vườn cây rộng lớn khiến ngôi chùa có vẻ thâm trầm huyền bí.

Ông giám tự Phước đưa chúng tôi vào viếng ngôi chánh điện chùa.

Mái ngói không chạm long, lân, quy, phụng như những mái chùa thường thấy nên ngôi chùa Bàu Đưng mang dáng dấp một ngôi nhà cấp 4 bình thường.  Khi bước vào ngôi chánh điện, chúng tôi ngạc nhiên khi nhận ra giữa những pho tượng đức Phật Thích Ca có những pho tượng mang dung diện lạ. Dung diện những pho tượng này trông giống những bức tượng Phật cổ Amaraviti (nhân trung dài, môi dày).

Năm 1942, học giả Đào Duy Anh dùng máy bay chụp ảnh và phát hiện ngôi thành cổ Hóa Châu ở Đà Nẵng đã bị mất tích giữa rừng sâu mà sách "Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán Triều Nguyễn có đề cập tới. Từ phát hiện đầu tiên của học giả Đào Duy Anh, các nhà khoa học đã tìm được di chỉ ngôi thành cổ này. Khi khai quật di chỉ, các nhà khoa học tìm được nhiều hiện vật quý, trong đó có bức tượng Đức Phật Thích Ca cổ.

Lần theo dấu lịch sử, các nhà khoa học phát hiện rằng, từ thế kỷ thứ VII, Phật giáo đã lan sang vùng đất giáp biển Đông và ảnh hưởng mạnh đến văn hóa Champa. Những tượng Phật thuở đó đều mang nét điêu khắc Amaraviti (một vùng của Ấn Độ). Hiện nay, bức tượng đức Phật mang nét điêu khắc Amaraviti vẫn còn được lưu giữ tại chùa Thành Chung (Quảng Nam).

Ngoài ra, các nhà khoa học còn tìm thấy một số pho tượng đức Phật có cùng nét dung diện Amaraviti ở các chùa cổ thuộc vùng Đông Nam Á ở chùa Ko Rạt (Thái Lan), tượng Phật Jember ở Java (Indonesia), tượng Phật Angkor Borei (Campuchia)…. Xét từ một góc nào đó, tượng Phật mang nét Amaraviti là nét tín ngưỡng Phật đặc biệt pha trộn giữa văn hóa tín ngưỡng Phật giáo Ấn Độ với Phật giáo Champa.

Điểm khác biệt là tượng Phật thành cổ Hóa Châu chạm bằng chất liệu đá, còn tượng Phật ở chùa Bàu Đưng chạm bằng chất liệu gỗ.

Ông Phước cho biết, đó là những pho tượng có từ thuở lập chùa Bàu Đưng.

Được biết, cách chùa Bàu Đưng khoảng 4 cây số về hướng bắc có một khu vực di chỉ nền văn hóa Óc Eo đã được các nhà khảo cổ học khai quật cách nay hơn 20 năm. Liệu những pho tượng Phật cổ trong chùa Bàu Đưng và di chỉ Óc Eo có mối liên hệ tiềm ẩn nào mà các nhà khoa học chưa khám phá? Hy vọng qua bài viết này, các nhà khoa học lịch sử lưu tâm nghiên cứu truy nguồn để đưa những pho tượng Phật cổ trong ngôi chùa Bàu Đưng vào đúng vị trí lịch sử.

Căn cứ vào những thư tịch cổ bằng chữ nho mà ông Phước còn lưu giữ thì, cách nay hơn 200 năm, ông Phạm Văn Thậm, tức Tư Thậm (ông cố của ông Phước) mua lại vuông đất 1,3ha của sư Hai Huệ. Trên vuông đất có sẵn một ngôi chùa bằng tre lá và 2 gốc đại thụ củ chi đã hiện hữu từ thuở rất xưa. Trong chùa có sẵn những bức tượng Phật bằng gỗ. Ngoài ra, trên vuông đất còn có một số ngôi mộ đất không bia của những sư trụ trì các đời trước.

Lúc đó, sư Hai Huệ ẩn tu, không có đệ tử, đã hơn 90 tuổi. Khi sư Hai Huệ qua đời, ông Tư Thậm tiếp tục lưu giữ chùa để hương khói ngưỡng vọng Phật. Sau khi ông Tư Thậm qua đời, các đời con cháu tiếp tục làm giám tự chùa nhưng không xuất gia. Dù không có sư nhưng ngôi chùa luôn luôn được nhiều tín đồ đến cúng bái Phật. Vào những năm 50 thế kỷ trước, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đóng đồn An Định cách đó vài cây số, thường xuyên bắn phá xung quanh chùa nên người dân không dám đến cúng viếng nữa.

Năm 1960, anh ruột ông Phước là Phạm Văn Hồng xuất gia quy y Phật đi tu học với pháp danh là Thích Bửu Châu. Học xong, sư Bửu Châu về trụ trì chùa cho đến năm 2000 thì qua đời.

Sau khi sư Bửu Châu qua đời, ông Phước tiếp tục làm giám tự.

Trong thời gian sư Bửu Châu trụ trì, ngôi chùa trở thành một cơ sở cách mạng. Rất nhiều căn hầm bí mật được đào khắp vườn cây của chùa để bộ đội vềì trú ẩn.

Tại khu vực nghĩa địa của chùa vẫn còn nhiều nấm mộ của những người dân tham gia kháng chiến chống Mỹ. Trong đó có mộ của vợ chồng ông Hiểu, bà Bình là cán bộ du kích xã. Năm 1968, Mỹ cho hàng chục chiếc xe tăng càn vào chùa để tìm hầm bí mật. Bà Bình, khi đó 35 tuổi đã một mình chạy ra ngoài để đánh lạc hướng xe tăng địch. Bà hy sinh nhưng đồng đội của bà được an toàn. Bốn năm sau, cũng tại vuông đất của chùa, chồng bà là ông Hiếu cùng 4 người khác trú ẩn dưới một căn hầm bị địch phát hiện. Chiêu dụ mãi, không ai đầu hàng, địch ném lựu đạn xuống hầm, cả 5 người hy sinh.

Vào năm 1972, Trung đoàn 271 anh hùng đã về khu vực này mở cánh cửa quân viện từ biên giới Tây Nam để đánh địch. Ngôi chùa Bàu Đưng trở thành trạm cứu thương của Trung đoàn. Lo ngại, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã điều động Sư đoàn 25 kết hợp cùng địa phương quân Hậu Nghĩa tổ chức nhiều đợt tấn công vào đây. Khắp mặt đất chùa, nơi nào cũng in dấu máu anh dũng của bộ đội Trung đoàn 271 và dân quân địa phương.

Chỉ riêng thành tích chống Mỹ, ngôi chùa Bàu Đưng xứng đáng được dựng bia tưởng niệm.

Còn với những nét cổ trên các pho tượng Phật, ngôi chùa xứng đáng được các nhà khoa học nghiên cứu, xác định và lưu giữ bảo tồn.

Về độ tuổi và độ lớn, cặp đại thụ củ chi xứng đáng được bảo quản

Nông Huyền Sơn
.
.