Hay, dở chuyện “đối xử” của lễ hội

Thứ Năm, 23/04/2009, 10:00
Rất nhiều người quan niệm rằng đối với các đền, đình, chùa, miếu, phủ… thì phải tĩnh lặng, vệ sinh, thông thoáng và đặc biệt là phải có mỹ cảm. Người đến hành hương thành tâm thường muốn thanh thản, cầu khấn đấng thần linh. Thế nhưng, rất nhiều lễ hội bây giờ đang biến thành nơi kiếm tiền.

Các dịch vụ “mua thần” diễn ra ở hầu khắp các lễ hội. Ngay cả trước các đấng tôn nghiêm người ta cũng đua, chen nhau để đặt những mâm lễ tốn nhiều tiền của, mong lòng thành của mình mau chóng được đón nhận. Họ đâu biết rằng mình đang đối xử tệ với văn hóa lễ hội.

1. Vào ngày Quốc giỗ, hàng vạn người con nước Việt về hành hương núi Nghĩa Lĩnh (Phú Thọ), nơi đặt đền thờ Quốc tổ. Dân gian vẫn có câu: “Dù ai đi ngược về xuôi. Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”. Qua bao biến thiên lịch sử và địa lý, bao triều đại vẫn còn lại một niềm tin vĩnh hằng của dân tộc Việt vào chỗ dựa sinh tồn của giống nòi.

Cây có cội, nước có nguồn, người Việt có đạo thờ cúng ông bà, tổ tiên. Có những người ở đầu kia Tổ quốc cũng đi theo đoàn kéo ra tham dự. Tiền nong chi ra tốn kém không ít. Đây cũng là dịp để thể hiện lòng thành kính với tổ tiên nên họ chuẩn bị chu đáo, thể hiện hết mình. Khi đến nơi, họ sắm những mâm lễ đắt tiền gồm các loại bánh trái, gà luộc, lợn quay...

Cúng lễ xong lại xin lộc, rồi thậm chí ngồi “chế biến” luôn ở một góc nào đó. Khi có người đặt chân đến thì các dịch vụ cũng sinh ra theo, như ăn uống, nghỉ trọ, đổi tiền, sắp lễ thuê, bán đồ lễ, đồ thờ, viết sớ...

Các dịch vụ này mọc ra như nấm và luôn chèo kéo khách hành hương, biến hình ảnh lễ hội thành ra nhếch nhác, bẩn thỉu, là điều tối kị ở những nơi tôn nghiêm. Nhiều người lấy những ngày này để “hái ra tiền” và họ chẳng cần biết phải đối xử văn hóa ở nơi lễ hội thế nào.

Họ chỉ cần kiếm tiền và kiếm tiền. Đi đến bất cứ lễ hội nào như lễ hội Chùa Hương, Bà Chúa Kho, Yên Tử, Đền Hùng... đều có dịch vụ sắp lễ thuê, thậm chí cúng thuê. Những quầy hàng bầy la liệt, sát nhau lấn chiếm cả các lối đi lên di tích, khiến cho quang cảnh trở nên bụi bặm, chợ búa, khó chịu và thực sự mất mỹ quan.

Sau tết Nguyên đán, ở khu di tích Đền Hùng, từ cổng chính dẫn lên khu di tích có đến hàng chục phụ nữ cầm những xấp tiền giấy loại 200, 500 đồng mời khách đổi tiền để dâng lễ, mời mua đồ lễ. Đền Hạ, là nơi mẹ Âu Cơ sinh hạ trăm trứng, khu nội điện chật ních người dâng lễ với các mâm ngũ quả đầy đặn bắt mắt.

Vào chính hội thì thảm cảnh chen lấn còn khốc liệt hơn nhiều. Ai cũng muốn mình đặt được một vài tờ tiền lẻ mệnh giá 200, 500, 1.000 đồng lên ban thờ dù những hòm công đức được bố trí ở khắp nơi, lại có bàn ghi công đức có người trực cả ngày. Nhưng bàn ghi công đức rất vắng lặng.

Ở giếng cổ, tương truyền là nơi tắm cho các con của mẹ Âu Cơ, người ta cũng ném tiền lẻ xuống làm tiền vãi tứ tung, rồi các hiện tượng như nhét tiền vào kẽ chân thần linh, thánh tượng, hay các biểu tượng trang trí, ngẫu tượng...

Họ nghĩ rằng, tiền bạc và những vật phẩm cúng tiến phải đưa trực tiếp đến tay thần linh thì mới thiêng. Và như thế, họ đã phá hoại sự thanh tịnh của đền, đình, chùa... Có người chồng chất chen lấn nơi để mâm lễ, chen chỗ quỳ khấn thậm chí xảy ra cãi cọ, xô xát.

Rất nhiều người đi lễ nghĩ rằng bỏ tiền công đức nhiều nơi thì sẽ được phù hộ có nhiều tài, lộc hơn. Nhiều người khẳng định phải thắp hương, thể hiện tấm lòng ở tất cả các ban thờ thì mới thiêng.

Vì thế, người đi lễ cứ thấy ban thờ, tượng... là thắp hương, để tiền. Mệnh giá tiền phụ thuộc vào tình trạng kinh tế và lòng “thành kính” của người đi cầu lễ. Phó giáo sư Lê Trung Vũ, Viện Nghiên cứu tôn giáo cho rằng, lòng thành kính không nên được hiểu ở số lần để tiền mà ở thái độ văn hóa và cung cách ứng xử với thần linh.

Ông Lê Trung Vũ cho biết thêm: Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch phải quản lý cách tổ chức, quy định mỗi đền chùa, miếu, phủ... nên có tối đa hai hòm công đức. Không nên để việc mở rộng đền chùa chỉ cho có thêm ban thờ mới, hương án mới, hòm công đức mới. Tiền lẻ rải khắp nơi, rải vô tội vạ.

Như thế, tôi tự hỏi mình, hỏi những người đi khấn lễ rằng: Có phải thần linh thích tiêu tiền lẻ? Ai trả lời được?

2. Vừa rồi, tôi đi xe máy về hướng đền Bà Chúa Kho (thành phố Bắc Ninh). Chỉ mới chớm đoạn đường dẫn về di tích, tôi đã được một anh “chăn”. Anh mời tôi gửi xe, hướng dẫn lối lên và trước khi lên khấn bái, cầu xin thì hãy vào quầy hàng của vợ anh để mua sắm đồ lễ.

Có đến hàng trăm quầy hàng lớn nhỏ kéo từ nhà gửi xe lên đến cửa đền. Nhiều người cũng mời chào. Tôi nói với anh chàng đang “chăn” mình là tôi không mua đồ lễ, đừng mất thời gian. Anh chàng này khó hiểu, hỏi lại: “Ơ, sao đi lễ mà không sắm đồ”.

Khi đi vào bất kể chỗ nào có người đang khấn vái ở đây, tôi đều được một ai đó mời sử dụng dịch vụ khấn thuê. Ít thì 30 đến 50 nghìn, nhiều thì 100 đến 200 nghìn, nói chung tùy vào mức độ thành tâm của khách đối với Bà Chúa Kho.

Ông Nguyễn Duy Chính, một cựu chiến binh làm nhiệm vụ trông coi xe ở khu di tích này nói rằng, vào chính hội, du khách sẽ khổ sở hơn nhiều vì các loại “cò” khấn vái gây khó khăn. Các “cò” khấn vái chủ yếu là người địa phương. Họ học thuộc lòng một vài bài khấn, đến khi được nhờ cúng lễ thì ghi họ tên, tuổi, nơi công tác, sao chiếu mệnh để đọc lên thành lời.

Họ tự do chào mời, ngã giá khiến chuyến tham quan của nhiều du khách bị cản trở. Nhiều khách không biết còn bị... hớ vì người bán “hét” giá ở... trên trời. Sự việc này diễn ra nhiều lần, nhiều năm. Nhiều khách khi ra bên ngoài hỏi đội bảo vệ, hay những người trông coi xe ở di tích biết mình bị lừa mới ngã ngửa người vì tiếc của.

Để tránh tình trạng trên, Ban quản lý đền Bà Chúa Kho còn ghi những tấm biển lớn cảnh báo với khách hành hương: “Quý khách về lễ đền. Mua lễ tùy tâm, giá cả thỏa thuận, trả tiền trước khi lễ đền” để khách biết mà đề phòng.

Cũng theo ông Chính, khi nào lực lượng chức năng đi “dẹp” thì các hành động trên mới tạm “co vòi”, còn lơ là một chút là đâu lại vào đấy. Nhiều khi mệt mỏi, chẳng ai quan tâm đến các hoạt động chướng tai gai mắt đó.

Vậy đấy, ngay trong những đền, đình, chùa... nơi cảm tưởng chỉ có lòng hướng thiện và sự lắng đọng của tâm hồn thì vẫn tồn tại những điều vô văn hóa, vô thánh thần. Đến chốn tôn nghiêm vẫn gặp “cò”, vẫn bị lừa thì thử hỏi con người nên đến đâu để khỏi mắc vào điều nghiệt ngã này? Vô hình trung, người ta coi thần thánh có thể mua được, những lời cầu xin có thể dùng tiền và dùng vài ba lời xằng bậy của người trung gian là động đến lòng trắc ẩn của thánh thần. Không. Xin  hãy cứu lấy văn hóa lễ hội.--PageBreak--

3. Làm sao để có những mùa lễ hội sạch, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng? Câu hỏi đặt ra không chỉ đối với những nhà quản lý, các cơ quan quản lý di tích, lễ hội mà còn đối với mỗi người dân. Vì đã nói đến lễ hội là người ta nghĩ ngay đến những cảnh bán mua, ăn uống nhếch nhác, là rác thải bừa bãi, là ô nhiễm.

Đó là sự ô nhiễm ở bên ngoài, ở “phần cứng”. Nạn này đã khó chữa, thiếu thuốc chữa, nhưng ô nhiễm “phần mềm” còn khó chữa gấp bội. Đó là ô nhiễm hành vi, ô nhiễm lối ứng xử với lễ hội và thần thánh.

Cơ chế thị trường hiện rõ trong nhiều lễ hội lớn khiến nhiều địa phương đã có sự mất cân đối giữa yếu tố “lễ” và “hội”, gây ra tình trạng lộn xộn thiếu văn hóa. Chẳng lẽ những người dân chúng ta, khi đến với lễ hội lại mang trong mình sự tạp uế của đời sống thực dụng ngoài đời? Chẳng lẽ mỗi người dân chúng ta đến với lễ hội rồi hành vi cũng ô nhiễm như môi trường xuống cấp trầm trọng của lễ hội đó?

Chúng ta chất mâm cao cỗ đầy với những phẩm vật sang trọng, đắt tiền đặt trước thần linh để làm gì khi lòng chúng ta không thực sự hướng đến những điều thánh thiện. Phẩm vật cao nhất để hướng đến thánh hiền là phẩm chất trong suy nghĩ, lời nói và hành động đẹp chứ không phải là tiền của hay mâm cao cỗ đầy.

Như lời người xưa, kẻ đi lễ, hành hương nên sửa soạn tâm hồn mình để nó được trong sạch. Khi đối diện với thần linh phải thể hiện lòng thành kính tuyệt đối, chứ không thể dùng tiền để mua chuộc mà chuyển họa thành phúc được.

Có rất nhiều chuyện bi hài trong việc cầu khấn cửa Phật khiến nhiều người nghe cười ra nước mắt. Đã có người kêu lên rằng, ngày nay người ta đã trần tục hóa lòng thành. Tất cả những gánh nặng, oan ức, vui vẻ, thăng tiến, vất vả người ta đều đặt lên vai thần linh và nghĩ rằng, với số tiền họ bỏ ra, họ sẽ được chia sẻ.

Có nghĩa họ đã vô tình lấy “bụng mình suy ra bụng thánh thần”. Họ nghĩ rằng ở ngoài đời, họ vẫn dùng tiền để mua chuộc, cầu xin, thì đến trước mặt thần linh, quỳ gối chắp tay và dâng tiến, họ cũng sẽ được như ý.

Ngay cả những người làm ăn bất chính như buôn lậu, kinh doanh và môi giới mại dâm; hay những người đánh ghen, cướp của giết người cũng cầu xin thần linh cho được... như ý, thoát khỏi sự bủa vây của lưới pháp luật. Chẳng lẽ thần linh lại đi tiếp tay cho những đối tượng đó?

Ở Việt Nam, chưa có một thống kê xã hội học hay nghiên cứu nghiêm túc về vấn đề làm trong sạch các lễ hội cả môi trường tự nhiên và tâm hồn, mà lẽ ra việc này cần phải được chú trọng. Vì tâm linh là nhu cầu thiết yếu của mỗi người và có xu thế ngày càng đa dạng mà chẳng ai có thể cấm đoán.

Và như thế, lễ hội vốn đã không được quản lý chặt chẽ lại bị biến tướng, lợi dụng. Các nhà quản lý cảm thấy bế tắc, dẫn đến việc “thả cửa” cho tự phát, ảnh hưởng đến tình trạng văn minh của xã hội. Phải khẳng định rằng, việc quản lý các lễ hội còn quá “lởm khởm” và tính tự giác của người tham gia đều yếu kém.

Nếu mỗi người tự ý thức được một phần việc mình làm thì chẳng đến nỗi gây lộn xộn, om xòm ở các lễ hội vốn từ lâu bị biến tướng, coi trọng phần “hội”, vui chơi. Chúng ta nên có một cái gọi là “Văn hóa lễ hội”, “Hành vi đẹp trong lễ hội”.

Tôi và nhiều người khác mong sao yếu tố văn hóa lễ hội được tôn vinh. Phần “lễ” đem lại yếu tố giáo dục truyền thống cao và phần “hội” đem lại niềm vui lành mạnh cho mỗi người.

Và để sau mỗi mùa lễ hội, ai nấy đều khỏe mạnh, tin yêu vào cuộc sống. Để họ mãi tự hào là con Lạc cháu Hồng và mỗi năm lại hướng về ngày Quốc giỗ bằng lòng thành kính và tâm hồn thanh sạch

Diên Khánh
.
.