Nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy: Trả lại biệt thự về sống ở làng
Trong căn hộ chung cư lộng gió ở quận Cầu Giấy, GS-TS-KTS Hoàng Đạo Kính lần giở những quyển sách của cha mình, nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy, mà bao nhiêu năm nay ông đã lưu giữ như báu vật. Vừa giở những quyển sách đã sờn và lớp giấy cũ vàng chứa đựng bao tâm huyết của cha ông, ông vừa kể cho chúng tôi nghe về lai lịch của chúng. Và những cuốn sách này chính là của hồi môn, một gia tài vô giá mà cha ông đã để lại cho con cháu.
Hoàng Đạo Thúy là con nhà nho Hoàng Đạo Thành, ngay từ thời trẻ ông đã được coi là một nhà sư phạm tài năng, một nhà nho am tường. Ông cũng được coi là anh cả trong phong trào Hướng đạo Sinh Việt Nam. Năm 1940, Hội Hướng đạo Việt Nam có tổ chức rộng khắp Đông Dương. Trong số những tráng sĩ ngày ấy Hoàng Đạo Thúy sau này đã trở thành một trong những cán bộ cốt cán trong chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như Tạ Quang Bửu, Trần Duy Hưng, Dương Đức Hiền, Vũ Quý… Với tinh thần yêu nước, ông đã liên lạc với một số nhà cách mạng như Hoàng Văn Thụ, Trần Đăng Ninh...
Tháng 8/ 1945, ông được ông Trần Quốc Hoàn và ông Hà Huy Giáp đưa lên Tân Trào dự Quốc dân Đại hội. Tại đây ông được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và các ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Sau cách mạng Tháng Tám, ông đảm nhận nhiều cương vị quan trọng: Giám đốc trường võ bị Trần Quốc Tuấn, Cục trưởng Cục Công binh, Cục trưởng Cục Quân huấn, Tổng thư ký Ban Thi đua Trung ương…
Ông có công đầu trong việc tạo dựng và phát triển ngành thông tin liên lạc quân sự và được coi là anh cả trong Bộ đội Thông tin. Trong một tài liệu, Thiếu tướng Nguyễn Diệp, nguyên Tư lệnh binh chủng Thông tin liên lạc, người nhiều năm làm việc trực tiếp với ông Hoàng Đạo Thúy khẳng định: "Đó là một người có tri thức rộng, tầm nhìn xa về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là thông tin liên lạc quân sự. Ông sống giản dị, chân tình, được cán bộ, chiến sĩ rất yêu mến".
Nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy. |
Trong suốt quãng đời sống và hoạt động của mình, ông để lại nhiều tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực giáo dục, xã hội, chính trị, quân sự, lịch sử, văn hóa… Đặc biệt là những tác phẩm về lĩnh vực nghiên cứu lịch sử văn hóa Hà Nội. Vì lẽ đó, ông được mệnh danh là nhà Hà Nội học hàng đầu của Việt Nam.
GS-TS, KTS Hoàng Đạo Kính dừng giở những trang sách, ông bảo: "Người ta gọi ông cụ là nhà Hà Nội học, nhưng ông cụ bảo ông không làm nghiên cứu nên không thích chữ "học" ấy. Ông chỉ biết gì kể nấy, kể về Hà Nội, về những gì đã được nhào nặn, thẩm thấu, và cảm nhận của riêng ông. Vài tháng trước khi ông cụ ra đi, cách đây tròn 20 năm, khi hai cha con tôi trò chuyện cùng nhau, ông cụ nói: "Người ta già, lúc chết quên bớt đi. Còn cậu lại khổ về trí nhớ, cậu không quên ai, không quên cái gì bao giờ".
Trước khi ông cụ mất vài ngày, Báo Nhân dân đăng bài của ông cụ với nhan đề "Những khoảng trống đáng sợ". Vấn đề cảnh báo về nguy cơ xã hội, về đạo đức xuống cấp. Phải chăng đây là lời tiên tri, ông cảm thấy chống chếnh, người ta xô vào cờ bạc, tham nhũng, rượu chè, ma túy…".
Hồi tưởng về người cha của mình, kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính rưng rưng:
Khi đương chức, ông được phân một ngôi biệt thự trên phố Điện Biên Phủ, đến lúc về hưu, ông trả lại nhà và những gì thuộc về cơ quan, đồ nào của mình thì mang về dùng. Về hưu ông sống tại căn nhà nhỏ của tổ tiên để lại ở làng Đại Yên, thuộc phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, Hà Nội. Ngôi nhà xây tường gạch và lợp lá gồi. Những ngày trời mưa to, mái nhà bị dột, nước chảy qua lá rơi xuống nền nhà, ông cụ để chậu hứng nước mưa, cứ như vậy 20 năm trời ông chống chọi với mưa dột trong căn nhà lá gồi đó.
Sau khi về hưu, ông cụ lại có nhiều thời gian hơn, bạn bè đến chơi cũng nhiều. Bộ đội đến chơi với ông cụ, nhìn thấy mái dột liền lợp lại ngói cho. Ông không xin xỏ đòi hỏi chế độ chính sách, cũng không bao giờ ca cẩm than vãn, nói xấu. Ông đã đi theo sự nghiệp đó, và ông chân thành với nó. Ông không bao giờ a dua, không bao giờ viết giấy xin cho con cái gì hết, không bao giờ dùng chỗ quen biết để chạy vạy.
Những năm cuối đời, khoảng 10 năm ông cụ tự nấu ăn lấy, 16 năm trời chăm sóc vợ ốm đau bệnh tật. Không cần phải nhờ cậy các con, ốm đau không bao giờ ông kêu ca, ông tự chữa bệnh. Mảnh sân nhỏ trước hiên nhà, ông tự trồng rau lấy để ăn, trồng hoa để ngắm.
Ông trồng cà chua, trồng cây cúc đại đóa như một người nông dân làng Ngọc Hà. KTS Hoàng Đạo Kính kể đến đây thì dừng. Ông nhìn chăm chắm vào di ảnh người cha, nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy đang treo trên tường. Còn tôi, bất giác nhớ đến câu chuyện cảm động mà tôi đã đọc được ở trên Báo Quân đội nhân dân: Chuyện kể lại rằng, một lần Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm ông, nhìn quanh 3 gian nhà rất đơn sơ, không thấy có tủ lạnh. Thức ăn ở trên bàn chỉ một ít rau dưa. Đại tướng hỏi: "Thức ăn anh để ở đâu?". Hoàng Đạo Thúy cười, chỉ cái chạn 4 chân kê trên 4 bát nước, giống như bao gia đình nông thôn Việt Nam.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá: "Anh đã dành những năm tháng trong cuộc đời trong sáng và thanh bạch của mình cho sự nghiệp cách mạng của quân đội, của nhân dân, của Đảng. Thương yêu đồng chí và đồng đội, gần gũi bạn bè, hết lòng dìu dắt thế hệ trẻ, anh đã hoàn thành sứ mạng trên mọi cương vị…". Và tôi biết “tủ lạnh” của ông chính là mấy mét vuông vườn mà ông hằng ngày tự tay trồng rau trước hiên nhà.
Kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính kể tiếp: "Năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ sắp diễn ra, tôi được nhà nước cử đi học ở Trung Quốc, cha tôi không biết. Ông đi chỉnh huấn cưỡi ngựa về nha, ông chào mọi người để đi chiến dịch Điện Biên Phủ, đêm hôm ấy, ông mới biết con mình được cử sang Trung Quốc học. Ông về chào gia đình lại hóa ra chào con.
Ông không bao giờ nói câu thừa. Những lời của ông cụ nói khiến người ta mê mẩn vì trong đó là cả một bầu tri thức và giá trị đạo đức nhân văn, cả những lí luận, tư duy nhìn nhận phân tích sắc bén.
GS, TS, KTS Hoàng Đạo Kính đang lần giở những kỷ vật của cha mình, nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy. |
Ông nghiện cái píp hút thuốc. Tối ngủ quên, píp vẫn trong miệng, đến khi đổ bệnh đi khám ở Bệnh viện Việt-Xô, bác sĩ bảo ông bị tràn dịch màng phổi, phải kiêng thuốc lá, là ông cụ dừng ngay không hút nữa. Sau khi mẹ tôi mất, cha tôi sống một mình, hằng ngày tôi và con trai tôi tới thăm ông rồi sau đó lại ra về. Ngày mồng 4 tết, bạn bè của ông đến chúc tết, ông vẫn trò chuyện bình thường đến 7 giờ sáng ngày mồng 5 tết, năm 1994 thì ông đi. Con trai tôi kể lại, như mọi lần ông trở dậy, ra khỏi màn và tập thể dục, ông pha ly cà phê sữa uống dở và ngồi trên chiếc ghế mây lặng lẽ ra đi. Ông đi không một lời kêu ca, không một lời phàn nàn kêu ốm đau bệnh tật. Nhận được tin con trai báo, hai vợ chồng tôi về đặt ông cụ xuống giường. Ông cụ đi rất thanh thản.
Ông cụ rất hay giúp đỡ người nghèo, thương trẻ mồ côi, và người tàn tật. Ông cũng là người sống giản dị, tiết kiệm, chiếc thắt lưng da bị đứt ông tự tay khâu lấy bằng chỉ gai. Ngay cả cái áo sờn bị rách, ông cụ cũng tự tay khâu lấy. Ai cần giúp đỡ gì ông đều tận tình. Tiền nhuận bút viết báo, viết sách ông góp cho làng làm đèn đường, hoặc gửi tặng hội người mù. Ông là nhà nho, nhà nho nào cũng thế, không ưa bọn xúng xính. Ông tránh xa những kẻ bợ đỡ, a dua. Những năm cuối đời ông còn giữ lại cái mũ, cái kính đồi mồi của phụ thân mình (nhà nho Hoàng Đạo Thành), ống tiêm, ống pha cà phế, cái tẩu hút ở chiến dịch Điện Biên Phủ. Ông không thích nói đến huân chương, không thích nói khen thưởng. Mặc dù cụ là người đoạt giải thưởng văn học.
Trước khi mất vài ba tháng, ông cụ nói với tôi: "Cậu không để lại cho các con cái gì cả, cậu chỉ để lại cho các con cái giấy giới thiệu".
Ông đã để cho chúng tôi đó chính là cái tên của ông. Sau khi cụ mất, trên mộ của cha tôi chỉ ghi: "Cụ Hoàng Đạo Thúy 1900-1994". Không chức tước. Không huân chương. Chỉ là năm sinh, năm mất. Cái tên đã là tinh thần sự nghiệp. Dùng chữ "Cụ" bởi cha tôi đã sống gần một thế kỷ. Cụ bảo "Chết mà lên sân khấu làm gì?". Ông cụ là người không muốn làm phiền hà đến ai. Đến khi mất cũng thế.
Trước mọi chuyện ông cụ hết sức bình tĩnh. Ông không có kiểu người già gắt gỏng. Nói chuyện gì cũng cũng từ tốn, bình tĩnh, thâm trầm”.
Rồi người kiến trúc sư lẳng lặng đến bên một cái hộp, mở cho tôi xem một bức thư bằng bút viết trên giấy màu ngà. Đó chính là bức thư của cụ Hoàng Đạo Thúy gửi lại các con trước khi mất: Xin trích một đoạn nhỏ trong bức thư:
"Sau khi cha mất, đừng làm như thói thường mà rước huân chương đi đường. Làm sao tránh được đồ phúng tốn và phiền đến bà con, láng giềng.
Các con và các cháu, cả cuộc đời của bố mẹ là một lời dặn các con và các cháu chữ Trung Hậu. Trung với nước, với công việc. Hậu với bà con, với đồng bào. Các con, các cháu giữ nếp trung hậu cố có được hạnh phúc và thắng lợi…
Điểm tang là điểm cuối cùng của đời người. Ý của cậu là làm đơn sơ khi xảy ra thì nói với người gần nhất, người mất xin không viếng bằng tiền, đối chướng, hay hoa mà chỉ dùng mấy nén hương hay mấy chữ trên một tờ giấy. Đừng đem ảnh và huân chương đi đường. Chụp ít ảnh thôi; yêu cầu đốt đi, đào một lỗ nhỏ. Sát cậu là mộ mợ, bên em Minh, bỏ gói tro cho xuống đấy, lấp đi. Đất trả lại đất. Thế là xong cả. Không làm phần mộ, không dựng mộ chí. Nếu chưa làm được, thì kỉ niệm bố mẹ bằng cách ăn ở".
Gấp lại bức thư của Nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy, tôi bất chợt nhớ tới con đường ở Hà Nội mang tên ông. Phố Hoàng Đạo Thúy dài khoảng hơn 1km, rộng 40 m từ Trường THPT Nhân Chính đến đường Trần Duy Hưng. Lối sống, nhân cách của ông được người đời ghi nhận truyền tụng.