Nữ dịch giả Phạm Tú Châu: Người về thiên thu, nỗi lo ở lại

Thứ Năm, 20/04/2017, 20:35
Tôi trở lại căn nhà của PGS.TS Phạm Tú Châu, dịch giả của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Gót sen ba tấc" (của Phùng Kỳ Tài) ngôi nhà nằm lặng lẽ, yên tĩnh, "ngõ nhỏ phố nhỏ" cuối lối vào một nhà của khu nhà cổ trên đường Lý Quốc Sư. Trong khói hương và tiếng nhạc Phật trầm buồn, gương mặt bà trầm tư, phúc hậu trong khung ảnh nghiêm ngắn trên bàn thờ.


Say mê và thận trọng

Nhà văn, dịch giả Phạm Tú Châu sinh năm 1935 tại TP Nam Định, trong một gia đình có truyền thống Hán học và văn chương. Năm 1956, sau khi tốt nghiệp tại Khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc) bà ở lại trường công tác. 

Từ năm 1959 đến khi nghỉ hưu (1999) bà công tác tại Viện Văn học Việt Nam; là Phó giáo sư, Tiến sĩ chuyên nghiên cứu văn học cổ Việt Nam và mối quan hệ giữa văn học cổ Việt Nam với văn học cổ Trung Quốc. Vài thập niên gần đây, bà dồn sức cho việc dịch thuật văn học Trung-Việt. Các tác phẩm dịch tiêu biểu đáng chú ý của bà: “Thơ văn Lý Trần”, “Truyện truyền kỳ Việt Nam”, “Liêu trai chí dị”, “Tuyết Sơn Phi Hồ”, “Lựa chọn sinh tử”... (dịch chung), “Gót sen ba tấc”, “Ngọc vỡ”, “Roi thần”, “Tiễn đăng tân thoại”, “Chuồng bò trong tháng mù sương”, “Lửa thiêu Hoa Lam Các”, “Trời lạnh về khuya”, “Hồ Điệp”, “Biên thành”, “Đất dày”, “Triết học nhân sinh của tôi”... (dịch riêng). Ngoài ra, bà còn có nhiều công trình nghiên cứu về văn học cổ Việt Nam và một số truyện ngắn tự sáng tác.

Vợ chồng dịch giả Phạm Tú Châu thời trẻ.

Trong đó, bản dịch “Gót sen ba tấc” đã được tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1988. PGS,TS, nhà văn, dịch giả Phạm Tú Châu là một người điển hình cho tấm gương tự học mà nên, tự luyện mà thành nghề. Cũng bởi con đường đến với khoa học và dịch thuật đầy chật vật nên bà luôn trân trọng những giá trị thật của cuộc đời, sợ những cái ảo, những hư danh mà nhiều người ngày nay chạy theo, bất luận những cái giá phải trả.

Với riêng bà, dù ở tuổi 20 hay khi đã ngoài 80 tuổi thì sự say mê, thận trọng, trung thực với nghề, với chính cuộc sống của mình vẫn luôn là yếu tố tiên quyết. Mặc dù đã có hàng nghìn trang sách dịch cùng nhiều công trình khoa học được chú ý, nhưng bà vẫn luôn tâm niệm rằng: Nghề dịch thuật là một nghề khó!

Dịch để chuyển được đúng tinh thần nguyên bản đã đành, nhưng phải gắn được cái hay, cái bản sắc, cái tinh thần Việt vào trong bản dịch thì tác phẩm dịch mới thực sự sống lâu trong lòng độc giả. Những năm gần đây, mỗi ngày bà vẫn dành khoảng bốn giờ đồng hồ ngồi bên máy tính để làm việc.

Khi bà còn sống, căn nhà chỉ có một mẹ một con là bà và người con trai (sinh năm 1964) ở. Anh bị bệnh pakinson, đi lại khó khăn, dùng thuốc hằng ngày, nên dù bà đã ở tuổi ngoài 80 vẫn phải chăm chút con như hồi còn thơ bé. Bà ra đi, căn nhà đã vắng vẻ, nay lại càng hiu quạnh. Người giúp việc trông nom bà mấy ngày cuối đời trong bệnh viện, thương hoàn cảnh gia đình bà, ở lại cơm cháo thờ cúng bà hằng ngày.

Tôi vẫn nhớ lần trước tới gặp bà để xin tư liệu về nhà văn Phạm Cao Củng, chú ruột của bà, người được cho là nhà văn trinh thám thành danh đầu tiên trong văn học Việt Nam với hơn 20 cuốn tiểu thuyết trinh thám được nhiều độc giả thời kỳ ấy mến mộ. Ông còn được biết đến là một nhà báo, chiến sĩ công an trong thời kỳ đầu xây dựng và phát triển của đội ngũ những người cầm bút trong lực lượng CAND của tờ Công an mới (tiền thân của Báo CAND ngày nay).

Hồi ấy, song hành với sự chia sẻ về cuộc đời nhà văn Phạm Cao Củng, bà chia sẻ rất nhiều điều về nỗi niềm lo âu của bà trước tuổi già sắp về với ông nơi chín suối. Nỗi lo ấy là dành cho người con trai duy nhất của ông bà. Anh kém may mắn vì vướng vào căn bệnh pakinson khi còn quá trẻ. Căn bệnh ấy đã cướp đi của anh tất cả công việc, hạnh phúc, tương lai... Vợ và hai con rời căn nhà hạnh phúc của họ ra đi, để lại bà với sự tận tụy vừa hằng ngày cơm cháo cho anh, vừa tìm thầy tìm thuốc để chữa trị để mong có một phép màu đưa anh lại với cuộc sống bình thường.

Ngẫu nhiên và định mệnh

Nhà văn Phạm Tú Châu thường ngồi làm việc bên chiếc bàn nhỏ nhắn đặt ở tầng một ngôi nhà quen thuộc. Thỉnh thoảng tới thăm, tôi vẫn thấy bà ngồi làm việc bên chiếc bàn nhỏ xinh và chiếc máy tính đã cũ, gương mặt bà phúc hậu, điềm đạm đằng sau cặp kính lão quen thuộc và mái tóc đã bạc trắng.

Bà như hiện thân của hình ảnh một người phụ nữ cổ xưa thanh nhàn và yên ấm. Nhưng ít ai biết được rằng, nữ dịch giả tiếng Trung hiếm hoi ấy, đã phải trải qua không ít những thăng trầm trong cuộc đời, để mỗi lần dịch được một trang sách mới, bà như đang được trút cả bầu tâm can của mình cùng những số phận nhân vật và neo lại những ám ảnh không nguôi trong lòng độc giả... 

Bà từng kể cho tôi nghe câu chuyện cuộc đời đến với văn chương, học thuật của mình. Nó nằm trong hai chữ: ngẫu nhiên. Số phận của bà hoàn toàn do bàn tay của Con tạo xoay vần chứ chẳng bao giờ được bà định sẵn hay tính toán. 18 tuổi, đang học lớp cuối cấp 3 thì bà được Bộ Giáo dục tuyển đi học lớp tiếng Trung tại Khu học xá Việt Nam đặt tại Trung Quốc. Học xong lớp ngắn hạn một năm thì bà tiếp tục được giữ lại vừa học vừa làm tại trường phổ thông của Khu học xá.

Đó là những ngày tháng tươi sáng của một cô gái trẻ bước vào đời, nhưng cũng là những năm tháng vô cùng quan trọng đối với cuộc đời của bà sau này. Bà được tiếp xúc với rất nhiều sách kinh điển của văn hóa và thơ, văn Trung Quốc, từ Khổng Tử, Mạnh Tử rồi đến Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Đó là một luồng gió mát lành nuôi dưỡng tâm hồn người con gái tuổi đôi mươi mới bước vào nghề.

Bà bắt đầu nảy sinh tình yêu đối với văn chương trong một lần nghe thầy giáo dạy Trung văn phân tích truyện thơ cổ “Khổng tước Đông Nam phi” (Chim công bay về Đông Nam), kể về chuyện tình của hai người yêu nhau mà không lấy được nhau, để rồi sinh ly và tử biệt. Câu chuyện vô cùng cảm động và lãng mạn đó đã ám ảnh Phạm Tú Châu để cho đến sau này, khi theo đuổi dòng văn học dịch, bà vẫn thích những câu chuyện mang tính nhân văn sâu lắng.

Hễ cứ đọc được một truyện hay và hấp dẫn, bà như người bị bỏ bùa mê, ngẫm ngợi và bắt tay dịch ngay ra tiếng Việt để truyền cảm hứng của lòng mình tới độc giả. Sau này, bà là dịch giả nổi danh trong dòng văn học dịch Việt Nam với tác phẩm “Gót sen ba tấc” (của Phùng Ký Tài), nói về phong tục bó chân của người Trung Hoa xưa, nhưng lại mang một thông điệp mạnh mẽ, sâu sắc về những bí ẩn giấu cả một pho lịch sử trong bàn chân nhỏ dài 3 tấc (chỉ dài hơn điếu thuốc lá).

Một cuốn sách dịch hay được tặng thưởng văn học dịch năm 1998 nhưng dư âm của nó thì vẫn còn lưu lại cho đến tận bây giờ. Cuốn sách đã giúp đưa tên tuổi của nữ dịch giả Phạm Tú Châu trước đó ít ai biết trở thành một hiện tượng trên diễn đàn văn học dịch và giúp bà trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Sau đó, một loạt tác phẩm dịch của bà đã ra đời như: “Roi thần”, “Âm dương bát quái” (của Phùng Ký Tài), “Tiễn đăng tân thoại” (Tập truyện của Cù Hựu), “Nụ hôn cuối cùng” (tiểu thuyết của Vương Sóc), “Trời lạnh về khuya” (Truyện dài của Ba Kim), “Đời là như thế” (tập truyện của Lưu Chấn Vân), “Hồ điệp, triết học nhân sinh của tôi” (Tập truyện và bút ký của Vương Mông), “Biên thành” (truyện vừa của Thẩm Tùng Văn), “Đất dày” (Tập truyện của Lý Nhuệ)...

Sống cho mình và sống cho người

Trước khi về nghỉ hưu, dịch giả Phạm Tú Châu công tác 40 năm tại Viện Văn học Việt Nam, trải qua nhiều công việc khác nhau từ dịch tư liệu đến nghiên cứu văn học Trung Quốc, nghiên cứu văn học Việt Nam cổ cận đại, biên tập viên tạp chí Văn học, Phó Ban Văn học Việt Nam cận đại... Bà đã chứng tỏ khi có niềm đam mê và nỗ lực bền bỉ thì có thể gặt hái được thành tựu của mình.

Trong di sản để lại, nhà nghiên cứu Phạm Tú Châu có tiểu luận "Đi giữa đôi dòng", cùng với tiểu luận "Hoàng Lê nhất thống chí: văn bản, tác giả và nhân vật" thì với vốn Hán cổ và hiện đại, bà trở thành dịch giả của công trình có giá trị trong kho tự liệu thành văn cổ đại Việt Nam là bộ "Thơ văn Lý - Trần".

Dịch giả Phạm Tú Châu đã ra đi nhưng vẫn còn nỗi lo âu dành cho người con trai duy nhất.

Có lần bà đã tâm sự: Điều may mắn nhất của bà là được về làm việc tại một cái nôi nghiên cứu hàng đầu về văn học Việt Nam đó là Viện Văn học. Và điều tốt nhất là bà được về phòng tư liệu, nơi có đủ các thể loại sách cổ kim, đông tây, thứ bổ trợ kiến thức tốt nhất cho một người vốn chưa kinh qua nhiều trường lớp như bà.

Năm 1969, sau khi tốt nghiệp lớp đại học Hán văn đầu tiên do Viện Văn học mở, bà được phân công về tổ văn học nước ngoài của Viện, phụ trách công việc nghiên cứu văn học Trung Quốc. Đây cũng chính là ý định của Viện trưởng, nhà văn Đặng Thai Mai khi 6 năm trước, năm 1964, bà được phân công làm thư ký giúp việc cho Viện trưởng. Chính thời gian này, bà đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm và những bài học quý báu về đức độ cũng như tầm nghiên cứu khoa học của người thầy đáng kính.

Nhớ lại kỷ niệm về nhà văn Đặng Thai Mai, bà kể lại câu chuyện về thầy: "Trong “Liêu trai chí dị”, Bồ Tùng Linh có kể chuyện một anh chàng họ Vương nghe nói đạo sĩ trên núi Lao có nhiều phép lạ bèn đeo bầu xách giỏ leo lên xin học để khỏi vất vả mà được sống sung sướng đầy đủ. Ròng rã mấy tháng trời, thầy chỉ giao cắt cỏ, đốn củi đến chai cả chân tay, tịnh không có nói năng gì đến truyền phép lạ.

Anh chàng nản quá, bực mình thưa với thầy: Con lặn lội đến đây xin học đã vài ba tháng, thầy không dạy cho phép trường sinh bất tử thì cũng phải truyền một thuật nhỏ gì cho bõ công cắt cỏ, đốn củi hầu thầy chứ! Ông thầy cười, hỏi muốn xin thuật gì, anh chàng xin học phép đi qua được tường, áng chừng sau này muốn vào trộm nhà nào cũng được. Thầy truyền câu thần chú, quả nhiên anh ta húc đầu vào tường là qua được liền. Về nhà khoe vợ, vợ bảo thử coi, nhưng anh ta chỉ bươu đầu sứt trán mà thôi...

Tôi cứ như anh chàng họ Vương nhiều lần xin giáo sư Đặng Thai Mai chỉ dẫn cho sách lý luận này nọ, học lấy một thuật nhỏ để chóng viết được một bài báo đăng tạp chí của Viện. Ông thì tuy ở đỉnh núi Lao nhưng lại không như đạo sĩ, lần nào cũng bĩu môi cười mỉm, cái bĩu môi rất hóm nhắc tôi nhớ rằng trước hết phải đọc tác phẩm, không phải chỉ đóng khung trong văn học mà rộng ra tới lịch sử, văn hóa nói chung, phải biết cách đọc và phải đọc cho kỹ, cho tinh, cho sâu. Đọc là chọn lựa cái có ích của mình.

Những sách ông giao tôi đọc, những lần ông kiểm tra chỉ bảo, tôi thấy hết cái hay, cái sắc sảo, tinh tế, hóm hỉnh dù đó là sách hay chỉ là một đoạn tin tham khảo, một mẩu quảng cáo. Ông không muốn học trò viết "xổi" và không bao giờ truyền tiểu kỹ cho học trò. Tiểu kỹ và viết xổi mà trót lọt được chẳng qua không nhờ thầy gà cho thì cũng là một cách lọt qua tường vào nhà người khác, lâu dài thi thố với đời ắt sẽ có phen bươu đầu mẻ trán. Vì vậy, các thầy thường khuyên bảo chúng tôi "quý hồ tinh bất quý hồ đa" trong bài viết. Và tôi luôn ghi nhớ mãi điều đó trong sự nghiệp làm khoa học của mình".

PGS.TS, dịch giả Phạm Tú Châu là một người điển hình cho tấm gương tự học mà nên, mà thành nghề. Cũng bởi con đường đến với khoa học và dịch thuật đầy chật vật nên bà trân trọng những giá trị thật của cuộc đời, sợ những cái ảo, những hư danh mà nhiều người ngày nay chạy theo, bất luận những cái giá phải trả đắt rẻ thế nào.

Bà đã có một cuộc đời hạnh phúc với người chồng yêu thương, dù rằng ông ra đi sớm để lại bà và người con bệnh tật, nhưng bà không coi đó là nỗi bất hạnh, mà đơn giản chỉ là một chút thăng trầm trong cuộc đời để bà phải cứng cỏi bước tiếp và biết chấp nhận những quy luật của nhân sinh. Kể câu chuyện về đời mình, dịch giả Phạm Tú Châu đã cho rằng, cuộc đời, không ai nói trước điều gì, thôi thì biết sống cho người khác cũng là một điều hạnh phúc.

Bà đã có một cuộc ra đi không hề đau đớn, như một người nằm ngủ giấc thiên thu, dù căn bệnh của bà khi phát hiện ra, nó đã quá muộn. Biết rằng bà còn nỗi lo âu rất lớn dành cho người con trai của mình, nhưng có lẽ vẫn còn hy vọng. Và dịch giả Phạm Tú Châu, ở một nơi xa, sẽ vẫn đồng hành, chở che cho cuộc đời anh...

Trần Hoàng Thiên Kim
.
.