Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII:

Sửa đổi điều kiện đăng ký hộ khẩu tại các TP trực thuộc TW

Thứ Tư, 05/06/2013, 15:05

Sáng 23/5, Đại tướng Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an đã trình trước Quốc hội tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư trú. Bộ trưởng Trần Đại Quang khẳng định, nội dung sửa đổi, bổ sung phải phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về cư trú; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân...

5 năm, tăng gần 10 triệu người tại 5 TP trực thuộc TW

Luật Cư trú có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2007. Qua 5 năm triển khai thực hiện Luật Cư trú, Công an các địa phương đã giải quyết đăng ký thường trú cho 3.742.574 hộ, 17.784.100 nhân khẩu; tách sổ hộ khẩu cho 2.220.664 trường hợp; cấp mới 1.992.923 sổ hộ khẩu, đổi 2.874.518 sổ hộ khẩu, cấp lại 600.872 sổ hộ khẩu, điều chỉnh 137.193 trường hợp có thay đổi trong sổ hộ khẩu; xóa đăng ký thường trú 3.508.125 nhân khẩu; đăng ký tạm trú cho 1.861.260 hộ, 10.247.020 nhân khẩu, cấp 2.266.862 sổ tạm trú; tiếp nhận thông báo lưu trú 97.557.028 lượt trường hợp, làm thủ tục khai báo tạm vắng cho 1.146.902 lượt nhân khẩu.

Thực hiện Luật Cư trú đã giúp cho Cơ quan Công an đề ra nhiều giải pháp phục vụ có hiệu quả Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm và bảo đảm giữ gìn an ninh trật tự, cung cấp kịp thời tình hình số liệu về nhân, hộ khẩu giúp cho cấp ủy, chính quyền địa phương và các ngành có liên quan xây dựng kế hoạch, chỉ tiêu kinh tế - xã hội… bảo đảm phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.

Tuy nhiên, sau 5 năm triển khai thực hiện, một số quy định thông thoáng của Luật Cư trú chưa thực sự phù hợp trong điều kiện hiện nay, nên đã có nhiều trường hợp lợi dụng sự thông thoáng đó như lợi dụng quy định về việc cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ nhà ở của mình để có hành vi trục lợi; lợi dụng sự thông thoáng của pháp luật về cư trú để nhập hộ khẩu vào các thành phố trực thuộc Trung ương gây mất cân đối về phân bố dân cư và an sinh xã hội.

Theo thống kê của Bộ Công an, qua 5 năm triển khai thực hiện, số người chuyển về các thành phố làm ăn, sinh sống tăng nhanh gây sức ép lớn về gia tăng dân số cơ học, gây mất cân đối về phân bố dân cư và an sinh xã hội.

Tính đến 1/7/2012, tổng dân số tại 5 thành phố trực thuộc Trung ương (TP HCM, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ) gồm: 4.561.985 hộ với 18.887.151 nhân khẩu.

Từ tháng 7/2007, khi Luật Cư trú có hiệu lực thi hành, đến tháng 7/2012 dân số của các thành phố trực thuộc Trung ương tăng 2.038.205 hộ, 9.799.336 nhân khẩu. Cơ quan Công an đã giải quyết đăng ký thường trú cho 1.028.419 hộ, 4.663.990 nhân khẩu, trong đó, đăng ký từ tỉnh ngoài về 192.207 hộ, 837.956 nhân khẩu, đăng ký vào chỗ ở do thuê, mượn, ở nhờ 52.397 hộ, 188.334 nhân khẩu.

Mật độ dân cư phân bố không đồng đều, có sự chênh lệch lớn giữa các thành phố trực thuộc Trung ương với các tỉnh dẫn đến công tác quản lý cư trú của các thành phố trực thuộc Trung ương gặp nhiều khó khăn.

Mật độ dân số trung bình của 5 thành phố trực thuộc Trung ương là 1.686 người/km2 cao gấp 6,5 lần so với mật độ dân số trung bình của cả nước (265 người/km2), trong đó TP HCM là 3.589 người/km2  cao gấp 13,6 lần so với cả nước, Hà Nội là 2.013 người/km2 cao gấp 7,6 lần so với cả nước… đã tạo nên sức ép rất lớn về các vấn đề xã hội liên quan, ảnh hưởng đến sự phát triển về kinh tế - xã hội của địa phương nói riêng và của đất nước.

Luật Cư trú quy định người đã đăng ký thường trú mà thay đổi chỗ ở hợp pháp thì trong thời hạn 24 tháng, kể từ khi chuyển đến chỗ ở hợp pháp mới phải làm thủ tục thay đổi nơi đăng ký thường trú là quá dài, gây khó khăn cho việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội của địa phương, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người đang cư trú tại địa phương đó…

Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang trình bày tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư trú.

Điều chỉnh điều kiện đăng ký hộ khẩu tại các TP trực thuộc TW?

Điều 1, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư trú. Điều này sửa đổi, bổ sung các quy định về hành vi bị nghiêm cấm; về điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương; về thay đổi nơi đăng ký thường trú trong trường hợp chuyển chỗ ở hợp pháp; về đăng ký tạm trú; về lưu trú và thông báo lưu trú.

Theo đó khoản 1. sửa đổi, bổ sung Điều 8 quy định thêm các hành vi bị nghiêm cấm: giả tạo điều kiện để được đăng ký thường trú; cho đăng ký cư trú nhưng thực tế người được cấp đăng ký không sinh sống tại chỗ ở đó; đồng ý cho người khác đăng ký cư trú vào chỗ ở của mình để trục lợi.

Khoản 2, sửa đổi, bổ sung Điều 20 (điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương) theo hướng công dân được đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương khi: có chỗ ở hợp pháp; trường hợp đăng ký thường trú vào huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc Trung ương thì phải có thời gian tạm trú tại thành phố đó từ 1 năm trở lên; trường hợp đăng ký thường trú vào quận thuộc thành phố trực thuộc Trung ương thì phải có thời gian tạm trú tại thành phố đó từ 2 năm trở lên.

Được người có sổ hộ khẩu đồng ý cho nhập vào sổ hộ khẩu của mình nếu là người thành niên độc thân về sống với ông bà nội, ngoại, anh, chị, em ruột, cô, dì, chú, bác, cậu ruột; ông bà nội, ngoại về ở với cháu ruột.

Được điều động, tuyển dụng đến làm việc tại cơ quan, tổ chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc theo chế độ hợp đồng không xác định thời hạn và có chỗ ở hợp pháp.

Trước đây đã đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương, nay trở về thành phố đó sinh sống tại chỗ ở hợp pháp của mình.

Tăng dân số cơ học quá nhanh trong khi hạ tầng không đáp ứng được đang gây khó khăn cho phát triển kinh tế - xã hội của các thành phố trực thuộc Trung ương.

Trường hợp đăng ký thường trú vào chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân, tổ chức  thì phải bảo đảm điều kiện về diện tích bình quân theo quy định của hội đồng nhân dân thành phố, có xác nhận của chính quyền địa phương về điều kiện diện tích bình quân và được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản.

Việc đăng ký thường trú vào nội thành TP Hà Nội thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 19 Luật Thủ đô.

Khoản 3 sửa đổi khoản 1 Điều 23 (thay đổi nơi đăng ký thường trú trong trường hợp chuyển chỗ ở hợp pháp), quy định theo hướng người đã đăng ký thường trú mà thay đổi chỗ ở hợp pháp thì trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày chuyển đến chỗ ở hợp pháp mới có trách nhiệm làm thủ tục thay đổi nơi đăng ký thường trú.

Khoản 4 sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 30 (đăng ký tạm trú), quy định theo hướng sổ tạm trú được cấp cho hộ gia đình hoặc cá nhân đã đăng ký tạm trú, có giá trị xác định nơi tạm trú của công dân và có thời hạn tối đa là 24 tháng. Trước khi hết thời hạn tạm trú 30 ngày, công dân đến Cơ quan Công an nơi cấp sổ tạm trú để làm thủ tục gia hạn.

Khoản 5 sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 31 (Lưu trú và thông báo lưu trú) được sửa đổi, bổ sung theo hướng việc thông báo lưu trú được thực hiện trực tiếp hoặc bằng điện thoại hoặc qua mạng Internet, mạng máy tính. Công an xã, phường, thị trấn có trách nhiệm thông báo địa điểm, địa chỉ mạng Internet, địa chỉ mạng máy tính, số điện thoại nơi tiếp nhận thông báo lưu trú cho nhân dân biết".

Điều 2. Dự thảo Luật quy định thời điểm luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/2013.

Thẩm tra dự án Luật, Ủy ban Pháp luật cơ bản tán thành dự thảo. Ủy ban cho rằng, việc hạn chế bớt số lượng người thường trú tại các quận nội thành thì có thể nâng điều kiện về thời hạn tạm trú từ 1 năm lên 2 năm và phải bảo đảm về diện tích ở tối thiểu như quy định của dự thảo luật là hợp lý. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng, việc sửa đổi điều kiện đăng ký thường trú tại quận nội thành của các thành phố trực thuộc Trung ương như vậy vẫn chưa giải quyết được vấn đề người dân tập trung cư trú đông ở nội thành.

Về quy định điều kiện diện tích bình quân đối với trường hợp đăng ký thường trú vào chỗ ở do thuê, mượn, ở nhờ: Đa số ý kiến thành viên Ủy ban Pháp luật tán thành với quy định của dự thảo luật giao cho hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương quy định về diện tích bình quân để phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng địa phương; quy định này cũng tương tự như quy định của Luật Thủ đô. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị giao cho Chính phủ quy định chung về diện tích bình quân trong trường hợp này để áp dụng thống nhất cho các thành phố trực thuộc Trung ương.

Về quy định trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân, tổ chức thì phải có xác nhận của chính quyền địa phương về điều kiện diện tích bình quân và được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản. Loại ý kiến thứ nhất đồng ý với quy định của dự thảo luật là cần phải có xác nhận của chính quyền địa phương về điều kiện diện tích bình quân để đảm bảo sự chặt chẽ, tránh việc tùy tiện, thiếu trung thực trong việc khai điều kiện đăng ký thường trú.

Loại ý kiến thứ hai đề nghị cân nhắc quy định xác nhận của chính quyền địa phương và cho rằng việc xác nhận về diện tích nhà ở và số lượng người đang cư trú tại nơi ở đó sẽ tăng thêm thủ tục hành chính, gây phiền hà, tốn kém, dễ bị lợi dụng làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người dân, đề nghị cân nhắc bỏ quy định về văn bản xác nhận của chính quyền địa phương về diện tích bình quân.

Theo chương trình, Dự thảo Luật Cư trú sẽ được Quốc hội thảo luận và thông qua vào cuối kỳ họp thứ 5

Nguyễn Thiêm (nguyenthiemantg@gmail.com)
.
.