Quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên nước để phát triển kinh tế

Chủ Nhật, 16/07/2023, 06:21

Nguồn nước vùng đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) đang đối mặt với rất nhiều thách thức, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH), nước biển dâng diễn ra nhanh hơn dự báo. Vì vậy, việc quản lý, khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên nước là rất cần thiết, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội (KTXH) của cả vùng.

Theo Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, phương hướng phát triển nông nghiệp là chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp thích ứng với thay đổi về điều kiện tự nhiên theo 3 tiểu vùng sinh thái: vùng sinh thái ngọt ở thượng nguồn và trung tâm của đồng bằng là vùng trọng điểm về sản xuất lúa, thủy sản nước ngọt, trái cây; phát triển nền nông nghiệp đa dạng, theo hướng hiện đại, bền vững, có tính đến thích ứng với lũ cực đoan; vùng sinh thái mặn - lợ ở ven biển dành cho phát triển nuôi trồng thủy sản nước mặn, mặn - lợ trên bờ và trên biển; phát triển hệ thống nông - lâm kết hợp theo hướng sinh thái, hữu cơ, kết hợp du lịch sinh thái; vùng chuyển tiếp ngọt - lợ ở giữa đồng bằng để phát triển thủy sản nước lợ chuyên canh, luân canh với lúa, rau màu...

Quanly_1-1689441747686.jpg
Nước được xác định là nguồn tài nguyên chính cho phát triển kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện tại và tương lai.

Bên cạnh nước ngọt, nước mặn cũng được coi là một loại tài nguyên khai thác. Do đó, cần tiếp tục xây dựng, phát triển hạ tầng thủy lợi để điều tiết các vùng nước lợ, nước mặn và nước ngọt phù hợp với sản xuất của từng vùng và tổ chức lại sản xuất để phù hợp với từng vùng.

Tài nguyên nước tại ĐBSCL chịu tác động bởi nhiều yếu tố, như: thủy điện Trung Quốc trên sông Lan Thương; thủy điện hạ lưu vực sông Mê Kông; chuyển nước trong và ngoài lưu vực, phát triển tưới, sử dụng nước cho công nghiệp và sinh hoạt; công trình giao thông đường thủy; khai thác cát, BĐKH lưu vực sông Mê Kông. Bộ TN&MT khuyến nghị việc quản lý, sử dụng tài nguyên nước ĐBSCL phục vụ cho phát triển kinh tế, nông nghiệp tại khu vực với hai giải pháp phi công trình và công trình.

Trong đó, cần hoàn chỉnh hệ thống công trình khai thác, sử dụng nước ngọt trong nội đồng đồng bộ với công trình trên hệ thống kênh trục và công trình quy mô tiểu vùng; chủ động kiểm soát mặn để vừa sử dụng hiệu quả nước mặn cho nuôi trồng thủy sản (NTTS) vừa đảm bảo giảm tác động của xâm nhập mặn lên sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và cấp nước sinh hoạt cho người dân ven biển. Xây dựng các giải pháp công trình phục vụ NTTS (cấp nước ngọt, nước lợ, mặn, xử lý nước thải ô nhiễm), đặc biệt các giải pháp cấp nước ngọt, nước mặn cho khu vực NTTS xa sông và xa biển. Song song các giải pháp cấp nước cho sản xuất nông nghiệp và NTTS, chú trọng các giải pháp cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường.

Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với BĐKH nhấn mạnh: "Lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi, là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển vùng, cần phải được quản lý tổng hợp trên toàn lưu vực". Các biện pháp khôi phục không gian tích trữ lượng nước thừa gây ngập lụt trong cao điểm mùa mưa lũ để điều tiết cho mùa kiệt sẽ gia tăng độ ẩm mặt đất cả vùng và duy trì dòng chảy ra biển để cân bằng sinh thái với điều kiện hệ thống công trình thủy lợi phải được cải tiến, vận hành trên nguyên tắc "tôn trọng sự chuyển động của nước một cách chủ động, thân thiện nhất" là yêu cầu căn cơ nhất để đảm bảo cho ĐBSCL thích ứng với BĐKH.

Th.s Nguyễn Hữu Thiện (chuyên gia độc lập về sinh thái ĐBSCL) cho biết: "Biển rất cần nước ngọt của sông vì nước ngọt mang dinh dưỡng ra cho biển, làm cho độ mặn, nhiệt độ nước biển vừa phải. Cá biển rất cần vào, ra cửa sông để sinh sản và ngược lại tôm, cá sông cần biển. Chẳng hạn như tôm càng xanh là loài nước ngọt, nhưng khi mang trứng thì phải bơi ra vùng nước lợ để đẻ, sau đó tôm con di chuyển ngược dần lên vùng ngọt. Cá kèo thì sinh sản ở vùng cửa sông".

Theo ông Trương Cảnh Tuyên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang, tỉnh đang xây dựng Quy hoạch tỉnh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó có tích hợp phương án khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra. Phương án đã xác định quan điểm, mục tiêu, định hướng và giải pháp về tài nguyên nước đối với nguồn nước, quản lý nguồn nước, khai thác sử dụng, bảo vệ, phát triển tài nguyên nước và phòng, chống tác hại do nước gây ra. Sau khi quy hoạch được phê duyệt, các ngành, các cấp quyết tâm thực hiện để đảm bảo nguồn nước được khai thác bền vững phục vụ hiệu quả phát triển KTXH của tỉnh.

Phân tích dữ liệu từ những đợt hạn hán trong những năm qua cho thấy, lưu lượng nước trên sông Mê Kông về ĐBSCL ở mức dưới 1.600m³/s, giảm trên 1.200m³/s so với mức bình quân trong quá khứ. Diễn biến trong điều kiện thời tiết cực đoan này cũng đặt ra yêu cầu các giải pháp trữ nước cần phải tính đến các tình huống lưu lượng nước ngọt thượng nguồn Mê Kông đổ về ĐBSCL ở mức suy kiệt và con số 422 tỷ m³/năm mà các cơ quan chức năng ghi nhận trước đây không còn phản ánh đúng hiện trạng. Do đó, cùng với khôi phục không gian trữ nước đầu nguồn thì không gian trữ nước trong mùa mưa lũ trên đồng ruộng, kênh mương, ao hồ… các khu đất ngập nước ở vùng giữa, giáp mặn để chủ động nguồn nước nội vùng và góp phần điều tiết tăng cường độ dòng chảy nước ngọt về phía ven biển trong mùa kiệt, giảm bớt mặn xâm nhập sâu về phía thượng nguồn cũng cần được thực hiện trên cơ sở điều chỉnh sản xuất phù hợp.

Ông Nguyễn Bình Thuận, Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Bạc Liêu cho biết, xác định tầm quan trọng của tài nguyên nước, dựa trên các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý tài nguyên nước của Trung ương, UBND tỉnh Bạc Liêu đã ban hành nhiều văn bản để quản lý tài nguyên nước. Đặc biệt, tỉnh Bạc Liêu đã tổ chức sơ kết việc triển khai thực hiện Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH trên địa bàn tỉnh, trong đó Bạc Liêu đặt phát triển bền vững tài nguyên nước trong điều kiện BĐKH lên hàng đầu.

Bên cạnh đó, các nhiệm vụ phát triển KTXH của tỉnh phải được lồng ghép lĩnh vực tài nguyên nước vào trong các quy hoạch, kế hoạch… Theo ông Đỗ Thanh Thảo, Giám đốc Sở TN&MT TP Cần Thơ, bên cạnh đẩy mạnh quy hoạch, lập danh mục hành lang bảo vệ nguồn nước, TP Cần Thơ còn siết chặt việc cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước, nếu khu vực nào đã có nhà máy cấp nước thì kiên quyết không cấp phép khai thác nước dưới đất; đồng thời vận động, khuyến khích người dân, doanh nghiệp tái sử dụng lại nguồn nước thải, nước mưa.

Đức Văn
.
.