Bắt nhóm chiếm đoạt mã, rút tiền qua tài khoản ngân hàng

Thứ Ba, 03/03/2020, 20:17
Sau khi phá vụ án, cơ quan điều tra phát hiện có nội dung hướng dẫn cách thức để khách hàng cung cấp mã OTP, danh sách thông tin hơn 342.000 thẻ tín dụng, khoảng 121.894 thông tin khách hàng vay cùng nhiều vật chứng liên quan.


Ngân hàng và khách hàng đều bị lừa

Ngày 25/2/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an TP Hồ Chí Minh cho biết đã có kết quả bước đầu về vụ án lừa đảo rút khống tiền ngân hàng. 

Có 4 bị can bị khởi tố gồm: Lê Minh Đức (sinh năm 1996, trú ở phường Phú Thuận, quận 7, TP Hồ Chí Minh), Lê Hồng Công (sinh năm 1990, ngụ thị trấn Ia Kha, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai), Lê Phước Hưng (sinh năm 1996 ở phường Phạm Ngũ Lão, quận 1, TP Hồ Chí Minh), Đỗ Hương Dung (sinh năm 1991, ngụ thị trấn Ia Kha) cùng về tội "Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản".

Các bị can: Lê Tiến Danh (cầm đầu), Lê Hồng Công, Lê Minh Đức, Lê Phước Hưng và Đỗ Hương Dung.

Các bị can Lê Minh Đức và Lê Hồng Công bị bắt tạm giam, còn bị can Hưng, Dung được tại ngoại, nhưng cấm đi khỏi nơi cư trú. Cả 4 bị can này là đồng hương, quê ở thị trấn Ia Kha, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai.

Trước đó, liên quan đến vụ án này, cơ quan CSĐT Công an TP Hồ Chí Minh đã khởi tố, bắt giam Lê Tiến Danh, sinh năm 1992, cũng quê ở thị trấn Ia Kha; trú tại phường 26, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh, đối tượng cầm đầu), Lê Thanh Hiền (sinh năm 1996, ngụ quận Gò Vấp), Lê Trọng Nghĩa (sinh năm 1994, ngụ quận 7) với cùng tội danh trên. Trong vụ án này, Lê Hồng Công, Lê Trọng Nghĩa và Lê Minh Đức là anh em ruột.

Kết quả điều tra cho biết, từ năm 2018 đến nay, một ngân hàng thương mại cổ phần (tạm gọi ngân hàng A, và một công ty tài chính (gọi là công ty tài chính B) trên địa bàn TP Hồ Chí Minh nhận được nhiều đơn khiếu nại của khách hàng về việc họ không hề vay tiêu dùng tại công ty tài chính B, nhưng vẫn bị ngân hàng A và công ty tài chính B thông báo yêu cầu thanh toán nợ vay. Có người chưa nhận được tiền vay thì đã bị chiếm đoạt.

Điều tra theo tố cáo đã làm rõ nhóm tội phạm do Lê Tiến Danh cầm đầu.  Bằng nhiều cách, Lê Tiến Danh và đồng bọn có được User đăng nhập vào hệ thống FinOne hoặc SaigonPPo (hệ thống lưu trữ thông tin khách hàng) của công ty tài chính B. Nắm được các dữ liệu thông tin khách hàng của công ty này, chúng lấy được 2 nguồn thông tin của khách hàng.

Nguồn thứ nhất, đó là khách hàng đang có hồ sơ vay tại công ty tài chính B với đầy đủ chi tiết họ tên, năm sinh, chỗ ở, nghề nghiệp, số điện thoại liên hệ, tài khoản ngân hàng; hồ sơ vay của họ đã thẩm định, phê duyệt, giải ngân,… Đặc biệt, các đối tượng nắm được thông tin cá nhân khách hàng được giải ngân trong ngày.

Lê Tiến Danh tổ chức cho đồng bọn giả danh nhân viên công ty tài chính B hoặc ngân hàng A, gọi điện thoại đến khách hàng, chủ động đọc đầy đủ họ tên, năm sinh, chỗ ở, CMND, tài khoản, khoản vay của khách hàng... Mục đích để khách hàng tin đó chính là nhân viên thật của công ty tài chính hoặc ngân hàng, từ đó khách hàng sẽ đồng ý cho hỗ trợ giải ngân nhanh. Lúc này, các đối tượng đăng nhập vào trang web Online của ngân hàng để can thiệp vào tài khoản ngân hàng.

Hệ thống sẽ tự động gửi mã OTP đến số điện thoại khách hàng và chúng yêu cầu khách hàng cung cấp các mã OTP này. Có được mã OTP, chúng chuyển tiền vay của khách hàng bằng Internet Banking đến 55/185 tài khoản mạo danh rồi rút ra chiếm đoạt.

Nguồn thứ 2, đó là những khách hàng bị công ty tài chính B không duyệt cho vay, sau 4 tháng thì được lập hồ sơ vay lại.

Với nguồn này, Lê Tiến Danh chuyển các thông tin cá nhân của các khách hàng cho Lê Minh Đức để Đức cung cấp cho Lê Thanh Hiền, Lê Phước Hưng, Đỗ Hương Dung giả danh nhân viên công ty tài chính B gọi điện thoại cho khách hàng  để "hỗ trợ vay vốn". Các số điện thoại gọi cho khách hàng đều là số khuyến mãi do Danh và Đức cung cấp.

Bọn chúng cũng chủ động đọc các thông tin vay trước đây của khách hàng nhằm làm khách hàng tin tưởng bọn chúng là nhân viên công ty tài chính thật. Nếu khách hàng đồng ý vay thì cung cấp lại đầy đủ các thông tin cá nhân để lập hồ sơ vay. Nếu khách hàng chưa có tài khoản tại Ngân hàng A thì chúng yêu cầu tự mở nhưng không đăng ký Internet Banking, sẽ tốn chi phí và giải ngân chậm.

Sau khi thu thập được các thông tin từ khách hàng đồng ý vay, Hiền, Hưng, Dung sẽ giao về một "đầu mối" cho Đức xử lý. Đức tự đăng ký Internet Banking, sử dụng số điện thoại khách hàng đăng ký nhận mã xác thực OTP và mật khẩu do hệ thống ngân hàng gửi đến cho khách hàng. Sau đó, Đức lập hồ sơ vay bằng cách giả chữ ký, chữ viết khách hàng. Mỗi hồ sơ vay bọn chúng liên kết tối thiểu với 3 số điện thoại khuyến mãi do Danh và

Đức mua sẵn gồm: 1 số mặc định cho khách hàng, 2 số mặc định cho người tham chiếu (là người thân hoặc bạn bè của khách hàng) và chọn hình thức giải ngân qua tài khoản ngân hàng A của khách hàng. Đức chụp ảnh và Scan hồ sơ vay này đưa lên hệ thống công ty tài chính B chờ thẩm định giải ngân. Do Danh có User nên đăng nhập được vào hệ thống Finone để theo dõi tình trạng hồ sơ.

Khi hồ sơ đến giai đoạn thẩm định, chuyên viên công ty tài chính B (thật) gọi đến các số điện thoại trên hồ sơ thì ngay lập tức Danh yêu cầu Hưng, Đức, Công, Dung, Hiền đóng giả khách hàng và người tham chiếu để trả lời thẩm định và lập tức thông báo cho Danh hoặc Đức biết hồ sơ được duyệt hay không, số tiền được duyệt cho vay, thời gian dự kiến giải ngân.

Khi hồ sơ đạt yêu cầu, công ty tài chính giải ngân vào tài khoản khách hàng thì Đức can thiệp. Đức vào tài khoản ngân hàng A của khách hàng, đưa ra các thông tin gian dối, để yêu cầu khách hàng cung cấp mã xác thực OTP và chuyển tiền đến 55/185 tài khoản mạo danh khác do Danh quản lý, sử dụng, sau đó rút ra chiếm đoạt.

Khi khám xét người, chỗ ở các đối tượng nêu trên, cơ quan điều tra đã thu giữ 185 thẻ ATM, trong đó, có đến 147 thẻ ATM mạo danh được mở bằng các CMND với thông tin không có thật; thu giữ 552 thẻ sim điện thoại đã qua sử dụng và 53 chiếc điện thoại di động; 3 máy tính xách tay, trong đó có lưu trữ dữ liệu thông tin nhiều khách hàng của ngân hàng và công ty tài chính cùng nhiều thông tin liên quan đến vụ án...

Lợi dụng kẽ hở quản lý để  phạm tội

Lê Tiến Danh là Giám đốc Công ty TNHH thương mại dịch vụ Smart Link (trụ sở trên đường Đinh Bộ Lĩnh, phường 26, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh). Công ty này là đại lý cấp 2 trong tìm kiếm khách hàng vay tiêu dùng tín chấp cho công ty tài chính của một ngân hàng thương mại cổ phần, được hưởng phí dịch vụ trên từng hợp đồng giải ngân. Qua làm việc, Danh thấy có sự sơ hở trong quy trình cho vay tiêu dùng tín chấp của công ty tài chính này.

Đó là gói vay sim không cần thẩm định trực tiếp, quản lý không chặt chẽ các mã đại diện bán hàng, dữ liệu khách hàng, hồ sơ vay, duyệt vay vốn. Trong khi đó khách hàng lại thiếu hiểu biết về các mã xác thực giao dịch OTP.

Danh đã nảy sinh ý đồ và tổ chức đường dây dùng nhiều thủ đoạn gian dối để truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của các khách hàng vay vốn, chiếm đoạt tiền của ngân nàng và khách hàng vay tiền.

Lê Thanh Hiền được phân công sử dụng các sim điện thoại "rác" mạo danh nhân viên ngân hàng tên Nam để gọi điện thoại cho khách hàng tư vấn hỗ trợ vay vốn. Khi hồ sơ vay được duyệt và giải ngân, nhóm đối tượng đưa ra thông tin gian dối, yêu cầu khách hàng cung cấp mã OTP để xác thực giao dịch chuyển tiền qua Internet Banking. Sau đó, Hiền và một số đối tượng trong băng nhóm thực hiện việc chuyển tiền từ tài khoản khách hàng vào nhiều tài khoản khác rồi rút ra chiếm đoạt.

Hiền còn được phân công sử dụng các thẻ ATM giả mạo tên người khác rút tiền để đưa cho Danh. Theo hướng dẫn của Danh, để khỏi bị phát hiện, Hiền phải rút tiền vào ban đêm, chọn những cây ATM vắng người qua lại... Ngày 4/8/2018, Hiền bị bắt quả tang khi đang rút tiền của một khách hàng để chiếm đoạt.

Còn bị can Nghĩa, từ năm 2016, Nghĩa làm việc cho công ty của Danh với chức trưởng nhóm kinh doanh, đến cuối tháng 1/2017 thì nghỉ. Sau đó, Nghĩa làm việc cho một công ty bất động sản ở quận Bình Thạnh.

Ngày 25/7, Danh gọi Nghĩa đến gặp có việc cần nhờ.  Danh đã đưa Nghĩa 8 thẻ ATM của ngân hàng và nói đây là thẻ nhân viên của công ty Danh, có cùng mật khẩu "8888" yêu cầu khi nào Danh báo có tiền chuyển vào thẻ nào thì Nghĩa sử dụng thẻ đó đến trụ ATM rút tiền đưa cho Danh và được Danh trả "thù lao".

Bị can Lê Minh Đức có vai trò chủ chốt tham gia tất cả các giai đoạn của hoạt động phạm tội: trực tiếp và phân bổ dữ liệu thông tin khách hàng, cung cấp điện thoại cho Hiền, Hưng, Dung gọi điện thoại lấy thông tin khách hàng, lấy mã OTP, lập giả hồ sơ vay, giả danh khách hàng trả lời thẩm định, mở tài khoản ATM mạo danh, thực hiện rút tiền phạm tội mà có, giúp sức tích cực cho Lê Tiến Danh chiếm đoạt tài sản.

Bị can Lê Hồng Công có hành vi sử dụng các CMND giả, giả chữ viết, chữ ký chủ tài khoản để mở các thẻ ATM mạo danh cung cấp cho Danh làm phương tiện phạm tội; quản lý, giám sát Đức, Hiền, Hưng gọi điện thoại khách hàng lấy thông tin lập hồ sơ vay giả; giả danh khách hàng là nam giới để trả lời thẩm định chuyên viên…

Lê Phước Hưng có nhiệm vụ gọi điện thoại khách lấy thông tin để Đức lập hồ sơ vay giả, rút tiền phạm tội theo chỉ đạo của Danh; sử dụng các CMND giả, giả chữ viết, chữ ký chủ tài khoản nhằm giúp Lê Tiến Danh có thẻ ATM mạo danh để sử dụng làm phương tiện phạm tội…

Đỗ Hương Dung thì có hành vi sử dụng CMND giả, giả chữ viết, chữ ký chủ tài khoản nhằm giúp Lê Tiến Danh có thẻ ATM mạo danh để sử dụng làm phương tiện phạm tội; giả danh nhân viên công ty tài chính gọi điện thoại cho khách hàng lấy thông tin; giả danh khách hàng là nữ để trả lời thẩm định các hồ sơ vay giả.

Cơ quan điều tra xác định có 49 trường hợp khách hàng có vay bị chiếm đoạt số tiền gần 1,9 tỷ đồng và 26 trường hợp khách hàng không vay nên công ty tài chính bị chiếm đoạt số tiền 410 triệu đồng. Tổng cộng số tiền bị chiếm đoạt gần 2,3 tỷ đồng.

Thúy Hà - Nguyễn Cảnh
.
.