Bí ẩn vụ cướp Bảo tàng Isabella Stewart Gardner

Thứ Ba, 17/04/2018, 22:34
Ngày 18-3-1990, 13 bức tranh của các danh họa Vermeer, Rembrandt, Govert Flinck, Édouard Manet, Degas…, vẽ vào giữa thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, được trưng bày trong Viện Bảo tàng Isabella Stewart Gardner ở thành phố Boston, bang Massachusetts, Mỹ, đã bị đánh cướp. Theo ước tính của các chuyên gia nghệ thuật, giá của 13 bức tranh này không dưới 900 triệu USD.

Cho đến nay, 28 năm đã trôi qua, cả Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) và Cảnh sát quốc tế (Interpol) cùng nhiều cơ quan cảnh sát ở các quốc gia châu Âu như Pháp, Anh, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Đức..., vẫn không hề tìm thấy tung tích của những tác phẩm này…

Hai viên cảnh sát giả danh

Nửa khuya Chủ nhật 17-3-1990, một chiếc xe bán tải màu đỏ, hiệu Dodge Daytona chạy đến đường Palace, gần cổng chính Viện Bảo tàng Isabella Stewart Gardner, thành phố Boston rồi đậu lại. Trong xe có 2 gã đàn ông mặc sắc phục cảnh sát ngồi im lặng. Hôm ấy lại là ngày lễ thánh Patrick nên nhiều người đi lễ về khuya tin rằng cảnh sát có mặt là để bảo vệ cho sự an toàn của họ, tránh khỏi bọn cướp đường, xin đểu.

Đến 1 giờ sáng ngày 18-3, Richard Abath, nhân viên bảo vệ bảo tàng nhận bàn giao ca gác từ một đồng nghiệp gác trước ông. Sau đó, ông kiểm tra ổ khóa cửa cổng chính và đi một vòng qua các phòng trưng bày rồi ký vào sổ trực để bảo đảm rằng ông đã thực hiện đúng mọi nguyên tắc an ninh đã được ban giám đốc bảo tàng quy định.

Bức tranh “Bão trên biển Galilee”.

1 giờ 24 phút sáng, một trong hai gã cảnh sát mở cửa xe bước ra, đến cánh cổng chính rồi đưa tay bấm chuông. Lúc này đường phố không hề có bóng người nào, chỉ thỉnh thoảng mới thấy một chiếc ô tô vút ngang.

Richard Abath viết trong bản tường trình gửi FBI: “Nghe tiếng chuông, tôi bước ra xem thì thấy một cảnh sát. Đèn trong sân khá sáng nên tôi nhớ là khuôn mặt gã hơi gầy, đeo kính cận và có ria mép. Gã nói với tôi rằng gã nghe có những tiếng động lạ phát ra từ bên trong viện bảo tàng nên đề nghị tôi mở cửa cho gã vào xem. Theo nguyên tắc, sau 6 giờ chiều thì không một người khách nào được phép vào viện bảo tàng nếu không có lệnh trực tiếp từ ban giám đốc nhưng tôi không biết lệnh cấm đó có áp dụng cho cả cảnh sát hay không. Hơn nữa, thái độ của gã rất đĩnh đạc và bộ quần áo gã mặc chứng tỏ đó là một sĩ quan nên tôi mở khóa...”.

Khi cánh cổng vừa được Abath mở ra thì gã cảnh sát nãy giờ ngồi trong xe cũng bước đến. Cả hai theo Abath đến phòng trực. Vẫn trong bản tường trình gửi FBI, Abath viết: “Vừa bước vào phòng, viên cảnh sát đi đầu nói với tôi là trông tôi giống như một kẻ đang có lệnh truy nã nên yêu cầu tôi cho xem căn cước. Chưa kịp giải thích rằng đây có thể là sự hiểu lầm thì tôi đã bị đẩy vào sát tường. Khuôn mặt gã gần như chạm vào mặt tôi lúc gã còng tay tôi nên tôi biết chắc bộ râu của gã là râu giả...”.

Vài phút sau đó, theo lệnh của hai viên cảnh sát, Abath buộc phải nói qua điện thoại, gọi người bảo vệ thứ hai là Dawson xuống phòng trực. Cũng như Abath, Dawson nhanh chóng bị còng tay.

Trong bản tường trình, Dawson viết: “Người còng tay tôi có khuôn mặt mập mạp và cũng có ria mép. Tôi hỏi họ lý do tại sao chúng tôi lại bị còng thì một trong hai tên trả lời: “Đưa chúng tao đến phòng tranh ngay” khiến tôi hiểu rằng họ là kẻ cướp”.

Ở hành lang dẫn vào phòng tranh, gã cảnh sát có khuôn mặt gầy, đeo kính cận, lấy chùm chìa khóa lủng lẳng bên hông Abath. Tiếp theo, gã tháo còng tay rồi còng cả Abath và Dawson vào thanh vịn của lan can. Cẩn thận hơn, gã cảnh sát mặt tròn còn lấy một cuộn băng keo, quấn chặt hai chân hai tay đồng thời bịt kín miệng Dawson và Abath. Sau đó, gã mặt gầy lần lượt thử từng chiếc chìa khóa cho đến khi mở được cửa.

Theo Abath thì đêm nào cũng vậy, cứ 2 tiếng người gác phải đi kiểm tra từng phòng trưng bày một lần và chìa khóa các phòng được ban giám đốc bảo tàng giao cho bộ phận bảo vệ. Abath nói: Tôi tin chắc chúng đã nghiên cứu kỹ từ trước vì bảo tàng có rất nhiều phòng nhưng chúng chỉ chọn phòng Hà Lan (là nơi trưng bày những tác phẩm của các họa sĩ người Hà Lan), có những bức tranh trị giá hàng trăm triệu USD...”.

Cũng cần nói thêm rằng để tăng cường an ninh, Viện Bảo tàng Isabella Stewart Gardner được trang bị một hệ thống máy dò tiếng động. Kết quả phân tích của FBI sau vụ cướp cho thấy hai gã cảnh sát khi vào phòng Hà Lan, chúng đến trước bức “Chân dung tự họa” của danh họa Rembrandt vẽ năm 1634. Khi chúng đưa tay chạm vào bức họa thì chuông báo động réo vang. Lập tức một gã đập vỡ chuông. Kết quả phân tích từ máy ghi tiếng động chứng tỏ rằng cả hai gã đã cố kéo bức tranh xuống nhưng vì khung gỗ quá nặng, lại được bắt chặt vào tường bằng đinh vít nên chúng không lấy được.

Với các bức “Bão trên biển Galilee”, “Một quý ông và một quý bà trong bộ trang phục đen” cũng của danh họa Rembrandt; “Buổi hòa nhạc” của Vermeer, vẽ năm 1664; bức “Chez Tortoni” của Édouard Manet, vẽ năm 1778; bức “Cortege và cảnh vật xung quanh Florence” của danh họa Degas vẽ năm 1857 cùng một số bức khác cũng của Degas, chúng chỉ tháo lấy tranh và bỏ lại khung gỗ.

Chúng còn lấy một tượng đồng cổ Trung Quốc có từ đời nhà Thương, một con đại bàng bằng đồng đen, niên đại thế kỷ thứ 6 và đây cũng là con đại bàng được đúc bằng đồng đen duy nhất trên thế giới. Một số khác chúng không lấy được vì không tháo ra được, chẳng hạn như lá cờ Napoleonic, có giá 50 triệu USD. Tổng thời gian mà hai gã cảnh sát thực hiện vụ cướp là 81 phút.

8 giờ sáng 18-3, ca trực bảo vệ ban ngày không thấy bảo tàng mở cửa nên đã báo cho ban giám đốc. 8 giờ 15 phút, cảnh sát đến rồi giải thoát cho Abath và Dawson. Tiến hành kiểm tra, tổng cộng 13 bức tranh đã biến mất, trong đó đáng kể nhất là bức “Buổi hòa nhạc” của Vermeer, được mua bởi nhà sưu tập nghệ thuật Isabella Stewart Gardner với giá 200 triệu USD.

Theo giám đốc viện bảo tàng, trị giá của tất cả những thứ bị cướp là trên 900 triệu USD (khoảng 1,1 tỉ USD hiện tại) và ông sẵn sàng tặng 5 triệu USD cho bất cứ ai cung cấp thông tin để có thể tìm lại các bức tranh và 2 cổ vật này.

Truy tìm manh mối

Khỏi phải nói, vụ cướp Viện Bảo tàng Isabella Stewart Gardner không chỉ gây chấn động với toàn nước Mỹ mà nó còn là sự tiếc nuối với khá nhiều người yêu hội họa trên toàn thế giới. Rất nhanh chóng, vụ việc được giao cho Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) bởi lẽ các tác phẩm ấy có thể đã bị bọn cướp hoặc các đồng phạm bí mật đưa ra nước ngoài.

Bức “Bão trên biển Galilee” nay chỉ còn mỗi khung.

Phối hợp với Cảnh sát Anh quốc, Hiến binh Nhật Bản, Cảnh sát quốc gia Pháp, Cơ quan Điều tra Liên bang Nga, Cảnh sát Liên bang Đức, Bộ An ninh công cộng Trung Quốc, Cảnh sát quốc tế Interpol..., FBI cùng các quốc gia này tiến hành dò tìm hàng nghìn đầu mối trong giới chuyên mua bán cổ vật bất hợp pháp - chủ yếu là các bức vẽ của các danh họa. Bên cạnh đó, FBI còn cài người vào các viện bảo tàng tư nhân, các công ty chuyên mua bán, trao đổi các tác phẩm nghệ thuật và các nhà sưu tập tranh để nghe ngóng tin tức nhưng suốt 10 năm sau đó, họ không hề tìm thấy bất kỳ manh mối nào.

Một phát ngôn viên của FBI trong một cuộc họp báo tổ chức hồi năm 2000 đã cho biết những tên cướp là thành viên của một tổ chức tội phạm có cơ sở tại một hòn đảo nằm ở miền trung Đại Tây Dương và New England.

Vẫn theo lời người phát ngôn của FBI, những bức tranh bị đánh cắp đã được chuyển đến bang Connecticut và bang Philadelphia rồi được cất giấu ở một nơi nào đó, và họ cũng đã nắm được danh tính của hai nghi phạm. Một trong hai kẻ đó là Bobby Donati, thành viên của một tổ chức xã hội đen ở thành phố Boston, nơi xảy ra vụ cướp nhưng Bobby Donati đã bị bắn chết năm 1991 trong một cuộc đấu súng giữa các băng nhóm.

Nghi phạm thứ hai là Robert Gentile - một trong những ông trùm xã hội đen ở bang Connecticut. Theo FBI, Robert Gentile biết rõ địa điểm cất giấu các bức tranh nhưng khi được mời lên làm việc, ông ta phủ nhận thông tin này.

Năm 2010, FBI thông báo một số vật chứng của vụ cướp như còng tay và những đoạn băng keo dùng để trói hai nhân viên bảo vệ sẽ được gửi tới phòng thí nghiệm của FBI ở Quantico, bang Virginia với hy vọng tìm ra ADN của hai tên cướp. Tuy nhiên sau đó, một bài báo trên tờ Boston Globe cho biết tất cả những vật chứng ấy đã bị mất, FBI không tìm lại được.

Chân dung 2 tên cướp do FBI vẽ lại theo mô tả của Abath và Dawson.

Giữa năm 2012, tin từ một cơ sở của FBI cho biết có một kẻ đang chào bán những bức tranh bị cướp, trong đó có bức “Bão trên biển Galilee” của danh họa Rembrandt. Vẫn theo lời cơ sở, kẻ bán tranh có lẽ không có kiến thức về các bức họa nên đã đưa ra cái giá rất “bèo”.

Một mẻ lưới được giăng ra nhưng cuối cùng tin bán tranh chỉ là tin vịt! Một cơ sở khác cho biết Đạo quân Cộng hòa Ái Nhĩ Lan (Ireland Republic Army - IRA) là tác giả của vụ cướp. Họ cướp tranh với mục đích làm vật “mặc cả” với Chính phủ Anh nhằm nêu yêu sách đòi trả tự do cho những chiến hữu của họ đang bị nước Anh cầm tù.

Đầu năm 2017, Viện Bảo tàng Isabella Stewart Gardner tăng số tiền thưởng lên 10 triệu USD cho bất kỳ ai cung cấp thông tin dẫn đến việc thu hồi các bức tranh bị cướp. Song song với những việc này, FBI cũng tuyên bố họ sẽ không truy tố bất cứ ai tự nguyện đem trả lại các tác phẩm nghệ thuật bị cướp cho dù họ đã “lỡ mua” hoặc “lỡ nhận lời” cất hộ bọn cướp bởi lẽ theo luật định, thời hiệu buộc tội hai gã cảnh sát trực tiếp tham gia vụ cướp đã hết hạn.

Cuối năm 1997, phóng viên Tom Mashberg của tờ Boston Herald được William Youngworth và Myles Connor Jr, hai cựu tù nhân lái xe đưa đến một nhà kho ở Red Hook, khu Brooklyn, New York để xem bức tranh “Bão trên biển Galilee”.

Theo Tom Mashberg, nhà kho rất tối nên ông phải dùng đèn pin mới thấy. Sau đó, ông xin cạo một chút sơn trên tranh và được cả Youngworth lẫn Myles Connor Jr đồng ý. Tuy nhiên, các chuyên gia phân tích cho biết mẫu sơn ấy không phải của bức “Bão trên biển Galilee” vì nó được chế tạo gần đây thay vì từ thế kỷ 17.

Và như vậy, vụ cướp Viện Bảo tàng Isabella Stewart Gardner đến nay vẫn còn là bí ẩn.

Vũ Cao (theo Vanity Fair)
.
.