Quan hệ đối tác Mỹ - châu Âu sẽ sang trang?

Thứ Bảy, 06/02/2021, 09:07
Bên kia bờ Đại Tây Dương có lý do để hài lòng trước sự thay đổi quyền lực ở Nhà Trắng. Không những chính quyền ông Joe Biden cũng ưu tiên hợp tác quốc tế và cách tiếp cận đa phương trong quá trình giải quyết các vấn đề an ninh toàn cầu như châu Âu mà nhiều quan chức chóp bu trong ê-kíp của ông cũng dành phần lớn sự nghiệp của mình để giải quyết các vấn đề của châu Âu

Trong các cuộc điện đàm đầu tiên của mình với các nhà lãnh đạo chủ chốt của châu Âu, Tổng thống Joe Biden đã cố gắng củng cố những ràng buộc này. Cuộc điện đàm giữa ông và Tổng thống Pháp Macron được Nhà Trắng mô tả là biểu hiện của mong muốn tăng cường quan hệ song phương với đồng minh lâu đời nhất của Mỹ. Và trong cuộc điện đàm với Thủ tướng Anh Boris Johnson, Tổng thống Joe Biden bày tỏ ý định tăng cường mối quan hệ đặc biệt giữa Mỹ và Anh. Những điều này cho thấy Mỹ đang đề cao hai cường quốc quân sự quan trọng nhất của châu Âu.

Tổng đầu tư của Mỹ vào châu Âu cao hơn gấp 3 lần so với vào châu Á.

Rõ ràng tân Tổng thống Mỹ đang nỗ lực khôi phục tình bằng hữu vì mục đích huy động sự ủng hô của châu Âu đối với cái mà người phát ngôn của ông xác định là những mục tiêu an ninh then chốt của Nhà Trắng trong quá trình đề ra các chính sách mới đối với Nga, khu vực Trung Đông và đương nhiên là cả Trung Quốc.

Thực tế, nhiều người trong giới học giả và chính sách đối ngoại thời gian qua không thích bàn về mối liên kết giữa châu Âu và Mỹ vì cho rằng đó là câu chuyện của ngày hôm qua. Thay vào đó, họ thích bình luận về các vấn đề ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nơi đang diễn ra những sự kiện sôi động và những biến đổi nhanh chóng. Mối quan hệ trước đây giữa Mỹ và châu Âu đã trở thành đề tài nhàm chán. Hầu hết các lập luận được lặp đi lặp lại trong nhiều thập niên và việc theo dõi tiến trình mối quan hệ này cũng không còn thú vị. Nhiều người còn cho rằng phương Tây đang suy thoái.

Tuy nhiên, vẫn có một vài yếu tố khác cần xem xét. Anh, Mỹ và các nền kinh tế thuộc Liên minh châu Âu (EU) vẫn chiếm khoảng một nửa tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và gần 1/3 các dòng chảy thương mại của thế giới. Tổng đầu tư của Mỹ vào châu Âu cao hơn gấp 3 lần so với vào châu Á và tổng đầu tư của EU vào Mỹ gấp khoảng 8 lần tổng đầu tư của EU vào Trung Quốc và Ấn Độ cộng lại. Mỹ và châu Âu vẫn chi đến 900 tỷ USD/năm cho các lực lượng vũ trang, gấp khoảng 3-4 lần Nga hay Trung Quốc cộng lại, cho dù ngân sách quân sự thực tế của Nga và Trung Quốc không hẳn chỉ là những con số được công bố.

Các xu hướng trong tương lai có thể gây bất lợi cho mối quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương này nhưng trong thế giới hiện tại, mối liên kết này chắc chắn vẫn là mối liên kết quan trọng nhất đối với cả hai bên. Vấn đề thực sự là liệu Tổng thống Joe Biden có thể biến ý định tận dụng châu Âu để định hình lại vai trò của Mỹ trong việc xử lý một số vấn đề an ninh hàng đầu của thế giới thành hiện thực hay không.

Trên thực tế, vẫn có những khác biệt lớn giữa hai bên. Đối với châu Âu, chính sách ngoại giao đa phương - sử dụng các thể chế quốc tế để xử lý các khủng hoảng và giải quyết các vấn đề dựa trên các nguyên tắc đã được thiết lập - không chỉ là một lựa chọn mà còn là một vấn đề thể hiện niềm tin tôn giáo. Việc xây dựng EU sau Thế chiến II  dựa trên niềm tin vào chủ nghĩa đa phương. Và đối với châu Âu, không có cuộc khủng hoảng nào không thể được giải quyết bằng việc tổ chức một hội nghị thượng đỉnh ngoại giao hay đưa ra sự trợ giúp tài chính nào đó. Đây là cách thức châu Âu đối phó với các vấn đề rắc rối của riêng mình, cũng là cách thức họ mong muốn thực hiện để đối phó với các vấn đề của thế giới.

Mỹ và châu Âu chi đến 900 tỷ USD/năm cho các lực lượng vũ trang.

Trong khi đó, tân Tổng thống Joe Biden có thể chia sẻ quan điểm về xu hướng toàn cầu này nhưng họ sẽ làm vậy chỉ ở một mức độ nhất định và khi những đòi hỏi cũng như giới hạn của hợp tác đa phương không ảnh hưởng đến những gì mà Mỹ - và chỉ có Mỹ - xem là lợi ích quốc gia của họ. Còn nhớ thời điểm những năm 1990, khi Nam Tư (cũ) đang chìm trong nội chiến, ông Biden, khi đó là Thượng nghị sĩ, đã hối thúc các nhà lãnh đạo nước Mỹ lúc bấy giờ bỏ qua lệnh cấm vận vũ khí của Liên Hợp quốc và ủng hộ việc cung cấp vũ khí cho người Hồi giáo ở Nam Tư. Giờ đây, với tư cách là Tổng thống Mỹ, ông vẫn khẳng định giai đoạn đó là một trong những thành tựu an ninh quan trọng nhất trong sự nghiệp của mình.

Và thực tế là không có sự nhất trí ở Washington về cái giá mà Mỹ phải trả cho sự hợp tác toàn cầu. Đó là một trong những lý do giải thích tại sao Mỹ không phê chuẩn Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển hay Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, thỏa thuận mà Tổng thống Biden vừa đưa Mỹ gia nhập trở lại. Cả hai đều không có cơ hội được thông qua tại Quốc hội Mỹ, nơi mà nhiều nhà lập pháp vẫn coi chủ nghĩa đa phương là những cái gì đó "không liên quan". Vì vậy, sẽ luôn có sự khác biệt giữa châu Âu và Mỹ về những điều mà hai bên mong muốn đạt được từ việc thực hiện cách tiếp cận đa phương đối với các cuộc khủng hoảng.

Ngọc Lan (Tổng hợp)
.
.