Biệt kích Israel và chiến dịch Entebbe: Kế hoạch giải cứu (bài 3)

Thứ Sáu, 13/05/2016, 18:10
Tại Tel Aviv, lúc 9 giờ 30 phút sáng ngày 2-7, nội các Israel phê chuẩn kế hoạch sử dụng vũ lực để giải cứu con tin, được trình bày bởi Thiếu tướng Yekutiel Kuti Adam và Chuẩn tướng Dan Shomron với tên gọi “Chiến dịch Entebbe”, trong đó tướng Shomron được bổ nhiệm làm tư lệnh chiến dịch.

Đường vào hang cọp

6 giờ chiều ngày 1-7, sau khi Tổng thống Amin báo cho nhóm không tặc biết quyết định của Chính phủ Israel về việc trả tự do cho các tay súng PFLP, Đài Phát thanh Uganda phát đi bản tin: “PFLP đơn phương quyết định thời hạn đàm phán với Israel sẽ kéo dài đến chiều chủ nhật, ngày 4-7”.

Đến 9 giờ 15 phút tối,  Đài Phát thanh Uganda lại phát đi thông báo “PFLP sẽ trả tự do cho 101 con tin”. Như vậy, tại sân bay Entebbe chỉ còn 94 hành khách, gồm 60 công dân Israel; 10 người mang 2 quốc tịch Pháp, Israel hoặc Mỹ, Israel; 23 công dân Pháp, 1 người không rõ quốc tịch cùng 12 thành viên phi hành đoàn…

Các phi công trong đội bay C130, những người đã góp phần không nhỏ trong cuộc đột kích.

Cũng trong ngày 1-7, Tổng thống Amin chuẩn bị lên đường đến Port Louis, Mauritius, để tham dự hội nghị của Tổ chức Thống nhất châu Phi, thời gian ông dự hội nghị phù hợp với tuyên bố của bọn không tặc là kéo dài cuộc đàm phán đến ngày 4-7. Như thế, từ ngày 1 đến ngày 4-7, những con tin còn lại có thể vẫn được an toàn.

Tại Tel Aviv, lúc 9 giờ 30 phút sáng ngày 2-7, nội các Israel phê chuẩn kế hoạch sử dụng vũ lực để giải cứu con tin, được trình bày bởi Thiếu tướng Yekutiel Kuti Adam và Chuẩn tướng Dan Shomron với tên gọi “Chiến dịch Entebbe”, trong đó tướng Shomron được bổ nhiệm làm tư lệnh chiến dịch.

Thật ra, không phải chỉ đến khi Thiếu tướng Yekutiel Kuti Adam và Chuẩn tướng Dan Shomron trình bày kế hoạch giải cứu con tin trước hội đồng nội các Israel thì phương án sử dụng vũ lực mới tính đến, mà ngay khi chiếc Airbus số hiệu 319 bị PFLP cướp và nhất là khi 48 con tin đầu tiên được phóng thích rồi mô tả lại nơi giam giữ cũng như số lượng vũ khí mà bọn không tặc đang sử dụng, cộng với bản vẽ thiết kế sân bay, nhà ga Entebbe do Công ty Solel Boneh cung cấp, Bộ chỉ huy Lực lượng Quốc phòng Israel (IDF) phối hợp với Cơ quan tình báo Mossad đã âm thầm xây dựng một sa bàn với kích thước y như thật đồng thời tuyển chọn 100 binh sĩ đặc biệt tinh nhuệ gấp rút luyện tập dưới sự chỉ huy của Trung tá Yonatan Yoni Netanyahu (anh ruột của thủ tướng Benjamin Netanyahu hiện nay). Tướng Dan Shomron cho biết chỉ trong 36 tiếng, tất cả các thành viên đội giải cứu đều thuộc lòng vị trí và nhiệm vụ của mình, đến nỗi: “Nếu bịt mắt họ, họ vẫn thành công”.

Trong 100 binh sĩ đặc biệt tinh nhuệ, có 29 người thuộc lực lượng “Sayeret Matkal”. Đây là đơn vị trinh sát luồn sâu, chuyên về thu thập thông tin tình báo, đặt dưới quyền chỉ huy của Cục Tình báo quân đội Israel. Sayeret Matkal cũng được giao nhiệm vụ chống khủng bố và giải cứu con tin bên ngoài biên giới Israel. Nó được thành lập theo mô hình “Đặc nhiệm đường không” của quân đội Anh, và chức năng hoạt động tương đương như Lực lượng SEAL của Mỹ. Phương châm của Sayeret Matkal là “Ai dám làm, người đó thắng”. Chính Thủ tướng Benjamin Netanyahu cũng đã từng là chỉ huy trưởng của đơn vị này.

Trung tá Yonatan Netanyahu, người chỉ huy nhóm biệt kích Sayeret Matkal giải cứu con tin.

Theo Trung tá Joshua Shani, một thành viên trong đội giải cứu thì thoạt đầu, kế hoạch đặt ra là máy bay sẽ thả nhóm biệt kích Sayeret Matkal xuống hồ Victoria, nằm sát cạnh sân bay Entebbe. Tiếp theo, bằng xuồng cao su, biệt kích sẽ cập bờ rồi xông vào nhà ga nơi giam giữ con tin, tiêu diệt những tên không tặc với sự yểm trợ của những người lính còn lại nhảy xuống bằng dù.

Khi mọi việc hoàn tất, Chính phủ Israel sẽ đề nghị Tổng thống Amin cho phép máy bay của Hãng Hàng không dân sự El Al, Israel hạ cánh, đưa con tin về nước nhưng ngay lập tức, hơn 3/4 thành viên nội các phản đối bởi lẽ hồ Victoria đầy rẫy cá sấu, và chúng được nuôi bằng thịt người - là xác của những nhân vật đối lập ở Uganda mà Tổng thống Amin ra lệnh thủ tiêu.

Biệt kích Sayeret Matkal khi nhảy xuống phải đối mặt với nguy cơ này trước khi lên được xuồng cao su. Chưa kể nếu có thành công chăng nữa thì với sự “lật kèo” của Amin, chẳng ai cấm ông ta ra lệnh cho pháo binh bắn hủy diệt sân bay Entebbe, biến nó thành cối xay thịt với lý do quân đội nước ngoài cố tình xâm nhập lãnh thổ Uganda bất hợp pháp..

Cuối cùng, phương án tấn công bằng cách thả quân xuống sân bay Entebbe  được chấp thuận nhưng lại nảy sinh những vấn đề nan giải. Để di chuyển 100 người lính cộng với vũ khí, đạn dược cùng những thiết bị khác, phải cần 4 hoặc 6 máy bay vận tải C130 cùng 2 máy bay thương mại Boeing 707 - một chiếc được cải tạo thành bệnh viện dã chiến nhằm kịp thời cấp cứu những người bị thương còn chiếc kia chở tướng Yekutiel Kuti Adam và tướng Dan Shomron cùng bộ chỉ huy chiến dịch.

Từ Israel đến Uganda đường dài gần 4.000km, ngoại trừ hai chiếc Boeing 707 thì không một chiếc C130 nào của Không quân Israel có thể bay đến đó mà không phải dừng lại lấy thêm nhiên liệu mà lý do là họ buộc phải bay vòng vèo để đánh lừa. Địa điểm thích hợp nhất để tiếp nhiên liệu là Ethiopia, trước kia chịu ảnh hưởng của nước Anh nhưng từ khi quốc vương Hirsaiasi bị hạ bệ, Ethiopia không còn tỏ ra thân cận với phương Tây.

Địa điểm thứ hai là Kenya nhưng qua thăm dò, Chính phủ Kenya tỏ ra ngần ngại vì không muốn phải chịu cơn thịnh nộ của Tổng thống Amin và của Mặt trận nhân dân giải phóng Palestine - PFLP - khi cho phép máy bay Israel hạ cánh xuống lãnh thổ của họ.

Tướng Dan Shomron cho biết: “Bằng cách vận động một người Do Thái là chủ sở hữu chuỗi khách sạn Norfolk tại Kenya cùng các thành viên Do Thái khác là những doanh nghiệp ở Nairobi, thủ đô Kenya, những người này đã sử dụng ảnh hưởng về kinh tế và chính trị, thuyết phục Tổng thống Jomo Kenyatta đồng ý cho lực lượng giải cứu hạ cánh xuống sân bay quốc tế Jomo Kenyatta”. Bên cạnh đó, Chính phủ Israel còn được sự hậu thuẫn của ông Bruce MacKenzie, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Kenya. Chính Bruce MacKenzie đã góp phần vận động Tổng thống Jomo Kenyatta gật đầu.

(Sau này, khi cuộc giải cứu con tin đã thành công, Tổng thống Amin trả thù Bruce MacKenzie bằng cách sai một nhóm điệp viên Uganda nằm vùng ở Kenya đặt bom máy bay của Bruce MacKenzie khiến ông thiệt mạng.

Để tưởng nhớ Bruce MacKenzie, Giám đốc Cơ quan tình báo Mossad là Meir Amit đã lấy tên MacKenzie đặt cho một trang trại của mình ở Israel. Tương tự như vậy, khách sạn Norfolk ở Nairobi, thủ đô Kenya cũng bị những phần tử thân PFLP đánh bom. Quả bom san bằng khách sạn, giết chết 20 người và làm bị thương 87 người. Những tuyên bố từ phía PFLP cho thấy đây là hành động trả thù những kẻ đã hỗ trợ Israel trong cuộc tiến công vào sân bay Enterbbe).

Cỗ máy chiến tranh khởi động

Song song với những việc ấy, các điệp viên Mossad ở Uganda cũng hoạt động hết công suất. Một người Pháp gốc Israel - chủ một công ty mua bán thực phẩm ở Kampala, thủ đô Uganda và đồng thời cũng là điệp viên Mossad, trong nhiều năm là đối tác cung cấp nguyên liệu chế tạo suất ăn cho Hãng hàng không Uganda - thông qua sứ quán của một quốc gia khác ở Kampala, đều đặn cứ 6 tiếng một lần gửi tin về cho Mossad, báo cáo tất cả những biến động ở sân bay Entebbe.

Theo những báo cáo này, sân bay Entebbe có khoảng 1 tiểu đoàn phòng vệ (hơn 500 lính - trong đó khoảng 100 lính luôn sẵn sàng chiến đấu), vũ trang bằng tiểu liên AK, súng máy 7,62mm và 12,7mm, súng chống tăng RPG và một số xe thiết giáp chở quân BTR, thiết giáp M113, xe tăng T54, M41.

Ngoài ra còn 1 tiểu đoàn phòng không với các cỡ súng 37mm, 85mm, 100mm. Bên cạnh đó, sân bay Entebbe có 60 máy bay tiêm kích, chủ yếu là MIG 17 và MIG 21 cùng hơn 200 người vừa là chỉ huy, phi công, thợ máy, điều khiển radar, tiếp tế nhiên liệu cùng các dịch vụ hậu cần khác.

Các báo cáo cũng cung cấp cho Mossad thông tin về sân bay gồm khả năng hoạt động của đường băng mới, đường băng cũ, vị trí và số lượng các kho xăng dầu, hiện trạng nhà ga nơi giam giữ con tin, cơ chế bố phòng của mạng lưới radar, của các khẩu pháo phòng không, của xe tăng, xe thiết giáp…

Về phía nhóm không tặc, thường xuyên có mặt 8 tên nhưng cũng có lúc có 13 tên, vũ trang bằng súng ngắn, lựu đạn và tiểu liên. Theo đánh giá của ông chủ công ty mua bán thực phẩm, nhiều khả năng lính phòng vệ sân bay sẽ ủng hộ nhóm không tặc bằng cách bắn lại lực lượng đột kích.

Tối ngày 2-7, một tiếng sau khi nội các Israel phê chuẩn kế hoạch tấn công giải cứu con tin, Thiếu tướng Yekutiel Kuti Adam và Chuẩn tướng Dan Shomron tổ chức họp với bộ tham mưu chiến dịch cùng những sĩ quan chủ chốt trong cuộc giải cứu.

Nhóm biệt kích Sayeret Matkal tham gia giải cứu con tin.

Đại tá Ami Ayalon, phó chỉ huy chiến dịch Entebbe nhớ lại: “Theo phân công, Chuẩn tướng Dan Shomron chịu trách nhiệm chỉ huy tổng thể, tôi phụ trách thông tin liên lạc và hỗ trợ đường không. Đơn vị đi đầu gồm 15 người thuộc Lực lượng Sayeret Matkal do Trung tá Yonatan Netanyahu trực tiếp chỉ đạo, có nhiệm vụ tấn công nhà ga, tiêu diệt bọn không tặc và giải cứu các con tin”.

14 biệt kích Sayeret Matkal còn lại sẽ xông vào khu vực sân bay quân sự, phá hủy những chiếc máy bay tiêm kích MIG cùng những ổ súng phòng không nhằm ngăn ngừa lính Uganda đánh chặn khi nhóm giải cứu rút lui.

Về phía lực lượng hỗ trợ, 30 lính nhảy dù do Đại tá Matan Vilnai chỉ huy, chịu trách nhiệm giữ an toàn cho hai đường băng cả cũ lẫn mới, chiếm kho chứa xăng dầu, thực hiện việc tiếp dầu cho những chiếc C130 và Boeing 707 bay đến Kenya - nơi máy bay sẽ được bổ sung nhiên liệu thêm một lần nữa để có thể bay về Israel. Số binh sĩ còn lại thuộc lữ đoàn Golani do Đại tá Uri Sagi lãnh đạo, có nhiệm vụ bảo vệ những chiếc máy bay trong việc sơ tán con tin.

Vẫn theo kế hoạch, cất cánh từ sân bay Sharm el-Sheikh, những chiếc C130 chở nhóm giải cứu bay qua Biển Đỏ ở độ cao không quá 30m để tránh bị radar của Ai Cập, Sudan và Arab Saudi phát hiện, riêng hai chiếc Boeing vẫn bay như bình thường vì nó là máy bay thương mại. Gần hết biển Đỏ, máy bay ngược về phía nam, bay ngang lãnh thổ Cộng hòa Djibouti thuộc vùng sừng châu Phi.

Từ đó, nó vượt qua đất Somalia và vùng Ogaden thuộc Ethiopia rồi bay tiếp đến phía đông bắc thủ đô Nairobi, Kenya và hạ cánh xuống sân bay Jomo Kenyatta để lấy thêm nhiên liệu. Tiếp theo nó quay về phía tây, bay trên thung lũng Rift đến hồ Victoria. Ngay cạnh hồ Victoria là sân bay Entebbe, nơi giam giữ 94 hành khách còn lại.

Trong khoang của một trong những chiếc C130 làm nhiệm vụ giải cứu có một xe hơi hiệu Mercedes màu đen và một xe địa hình Land Rover màu xám - là loại xe mà Tổng thống Amin vẫn thường xuyên sử dụng, cả nước Uganda ai cũng biết. Khi xin phép hạ cánh, tổ lái của chiếc C130 sẽ báo cáo với Đài kiểm soát không lưu sân bay Entebbe rằng họ đang làm nhiệm vụ vận chuyển “chuyên xa” cho Tổng thống Amin. Với cái tên “Amin”, bộ phận chỉ huy chiến dịch giải cứu hy vọng rằng nhân viên kiểm soát không lưu chẳng ai dám đụng đến “ông kẹ” bằng cách gọi về văn phòng Phủ Tổng thống để xác minh, tìm hiểu.

Khi chiếc C130 chở “chuyên xa” tiếp đất, 3 chiếc C130 chở quân cũng sẽ hạ cánh ở cả hai đường băng cũ và mới. 15 biệt kích Sayeret Matkal xông ra, lao vào nhà ga nơi giam giữ con tin trong lúc 14 biệt kích Sayeret Matkal còn lại và 70 người vừa lính dù, vừa lính Lữ đoàn Golani sẽ tiến công chiếm giữ, phá hủy các mục tiêu như đã định.

(Còn tiếp)

Cao Trí (theo Flight 319 and Popular Front for the Liberation of Palestine)
.
.