Mỹ sử dụng gián điệp người Đức để đánh Phát xít

Thứ Năm, 24/10/2019, 14:15
Đến mùa thu năm 1944, phần lớn châu Âu bị Đức Quốc xã chiếm đóng đã được quân đội Đồng minh giải phóng. Nhưng, trong giai đoạn này của cuộc chiến, phe Đồng minh thiếu mạng lưới tình báo đằng sau hàng ngũ kẻ thù.

Các tổ chức kháng chiến phát triển tốt ở Pháp, Hà Lan, Bỉ, Nam Tư sẵn sàng tiếp nhận các điệp viên biệt phái từ OSS (Cục tình báo chiến lược, tiền thân của Cục Tình báo trung ương Mỹ - CIA) và SOE (Cục Chiến dịch Đặc biệt của Anh) để hỗ trợ hoạt động gián điệp và phá hoại.

Nhưng, bên trong nước Đức của Hitler lại không có cơ cấu tổ chức gián điệp ngầm đáng kể nào có thể so sánh với lực lượng du kích hoạt động trong các quốc gia bị Đức Quốc xã chiếm đóng. 

Những trở ngại đối với dòng thông tin tình báo từ bên trong nước Đức đã được chứng minh bởi cuộc tấn công bất ngờ mạnh mẽ ở Ardennes trong tháng 12-1944. Trận chiến Bulge đẫm máu cũng là hậu quả trực tiếp của sự thiếu thông tin tình báo về nội tình Đức Quốc xã.

Sử dụng tù binh Đức làm gián điệp

OSS cho rằng điệp viên Đồng minh duy nhất có cơ hội hoạt động hiệu quả trong lòng nước Đức Quốc xã phải là… người Đức bản địa! Do đó trong đêm 2-9-1944, Jupp Kappius - người theo chủ nghĩa xã hội sinh ra ở Đức - trở thành điệp viên OSS đầu tiên nhảy dù vào Đức. 

Đây là nhiệm vụ đầu tiên trong số nhiều nhiệm vụ khác bên trong nước Đức. Các chiến dịch được triển khai từ Anh, Italia, Pháp và thậm chí là Thụy Điển và Thụy Sĩ trung lập. Các nhiệm vụ sẽ bao gồm cả thường dân gốc Đức và sĩ quan quân đội OSS.

Phi hành đoàn một máy bay ném bom B-24 Liberator của Mỹ được sử dụng cho các hoạt động gián điệp bí mật của OSS.

Trung tướng Alexander Patch, chỉ huy Quân đoàn 7, yêu cầu sự giúp đỡ từ Henry Hyde - chỉ huy trưởng tình báo bí mật của OSS. Gián điệp của Pháp góp phần giải phóng nhanh chóng quê hương của họ. Nhưng những điệp viên này không thể xâm nhập Đức mà không bị phát hiện. 

Hyde đề xuất ý tưởng sử dụng tù nhân chiến tranh (POW) người Đức cho các nhiệm vụ gián điệp bên trong nước Đức Quốc xã. Cuối cùng, Tướng Patch ra lệnh cho Hyde tiến hành kế hoạch sau khi nhận được sự tán thành từ chỉ huy OSS là Tướng William “Wild Bill” Donovan. 

Hyde chọn một số sĩ quan để đánh giá nhóm tân binh POW người Đức được triển khai cho các nhiệm vụ đặc biệt đằng sau hàng ngũ kẻ thù.

Một trong những sĩ quan được chọn là Peter Viertel - trung úy lính thủy đánh bộ Mỹ 24 tuổi sinh ra ở thành phố Dresden nước Đức, nhưng đến Mỹ với cha là đạo diễn phim và lớn lên ở Hollywood trong thập niên 1930. Viertel là nhà văn tài năng và tác giả kịch bản bộ phim kinh dị “Saboteur” (Kẻ phá hoại) của Alfred Hitchcock năm 1942. 

Viertel chuyển từ đơn vị quân đội sang OSS vì thông thạo tiếng Đức. Sau nhiều ngày quan sát, các ứng viên POW người Đức này phải trải qua một loạt cuộc phỏng vấn căng thẳng để xác định họ có thể chấp nhận trở về quê hương làm gián điệp cho Mỹ hay không.

Trong cuốn tiểu thuyết “Call It Treason” (tạm dịch: Chúng tôi gọi đó là sự phản bội) năm 1949, tác giả George Howe – người từng phục vụ cho OSS – đề cập đến nhân vật là một thanh niên người Đức, con trai của một bác sĩ ở Berlin và tình nguyện trở về quê hương làm điệp viên cho Mỹ. 

Ông Peter Viertel ở tuổi 86, năm 2007.

Trong cuốn sách, Howe mô tả chương trình tuyển dụng POW người Đức, mà ông là một phần trong đó. Tù binh Đức được tuyển mộ từ trại giam Sarrebourg ở vùng Lorraine nước Pháp. Trại giam nằm trong một doanh trại bằng đá được xây dựng vào đầu thế kỷ 20, bao quanh bởi một bức tường cao phủ kín dây thép gai.

Các tân binh được nhóm OSS đưa đến một quán trọ nhỏ ẩn mình giữa những cây linh sam trong một khu rừng phủ tuyết gần làng Birkenwald miền bắc nước Pháp. Chương trình huấn luyện gián điệp cơ bản được thực hiện trong phòng ăn trang bị một chiếc bàn gỗ sồi lớn được bao quanh bởi những chiếc ghế gỗ nặng.

Căn phòng gồm một bảng đen được sử dụng để dạy tiếng Anh và nhận dạng vũ khí, phù hiệu và cấp bậc đơn vị. Huấn luyện nhảy dù đơn giản được tiến hành bằng cách thả các tân binh và tất cả các thiết bị của họ từ một cái bục cao khoảng 3 mét xuống một đống cát.

 “Nhiệm vụ du lịch”

Các tân binh gián điệp được thả xuống các khu vực cách xa thị trấn để tránh bị phát hiện đồng thời cho phép họ có thời gian chôn cất dù. Việc thiết lập một vỏ bọc đáng tin cậy là chi tiết quan trọng nhất trong việc chuẩn bị cho hoạt động bí mật. 

Một danh tính giả đáng tin cậy và lời giải thích đáng tin cậy cho việc đi du lịch là sự khác biệt giữa sống và chết cho các điệp viên OSS. Tất cả các gián điệp Đức làm việc cho OSS đều mang theo Soldbuch - một hồ sơ cá nhân xác nhận quan điểm tôn giáo, chính trị, quân sự và y tế… của họ.

Cuốn Soldbuch được lực lượng an ninh Đức Quốc xã kiểm tra thường xuyên và so sánh với các giấy tờ du lịch và vé tàu. Bất kỳ mâu thuẫn nào giữa các tài liệu và tuyên bố miệng là căn cứ để bắt giữ ngay lập tức. “Vỏ bọc” hoàn hảo cho gián điệp OSS phải bao gồm những lý do hợp lý để đi du lịch. 

Trung tướng Alexander Patch (1889 – 1945), chỉ huy Quân đoàn 7.

Lời biện minh được chấp nhận nhất đối với một người lính đi du lịch một mình là trở về đơn vị sau khi nhập viện để điều trị y tế. Nhưng “vỏ bọc” này phải được hỗ trợ tuyệt đối bởi nội dung có trong Soldbuch. Các tài liệu làm giả được sản xuất bởi OSS để hỗ trợ các nhiệm vụ cụ thể. Chúng bao gồm một bức ảnh cá nhân và các chữ cái với các dấu hiệu tuổi tác và trang phục để cung cấp tính xác thực cho vỏ bọc của điệp viên.

Ban đầu, các điệp viên được gửi vào lãnh thổ của kẻ thù bằng cách xâm nhập mặt đất, nhưng bộ binh Mỹ có xu hướng không hợp tác. Họ xem chiến dịch OSS chỉ đơn giản là trả lại lính địch cho đơn vị của họ để chiến đấu một lần nữa. 

Peter Viertel giới thiệu ý tưởng được gọi là “nhiệm vụ du lịch” thành phố, bao gồm các cuộc xâm nhập ngắn vào nước Đức Quốc xã. Các điệp viên sẽ vào lãnh thổ Đức trong khoảng một tuần và đi theo một tuyến đường được chỉ định và sau đó quay lại với một báo cáo về các quan sát của họ.

Các điệp viên được cung cấp tài liệu xác thực có được từ tù binh Đức trong trại giam hoặc giấy tờ giả được sản xuất bởi trạm OSS ở London. Chiến dịch xâm nhập Đức Quốc xã của OSS đã thành công trong những tháng 1 và tháng 2-1945. Đội biệt kích cũng bắt đầu tuyển mộ phụ nữ cho các nhiệm vụ gián điệp. Bên trong nước Đức thời chiến, phái nữ ít chịu sự giám sát của lực lượng an ninh quân sự và mật vụ Gestapo. Trong khi đó, nam giới thường xuyên bị chặn lại để đặt câu hỏi và kiểm tra tài liệu nhằm kiểm soát binh sĩ đào ngũ.

Ada, Emily và Maria

Ba phụ nữ đã được Viertel tuyển dụng từ trại giam Strasbourg. Họ được đặt tên mã là Ada, Emily và Maria. Trong đó, người thành công nhất là Maria – vốn là nữ sĩ quan tình báo Hải quân Mỹ chịu trách nhiệm điều hành các điệp viên và mạng lưới điệp viên trong tổ chức, tìm ra những ứng cử viên tương lai và huấn luyện họ. 

Maria bị buộc tội là cộng tác viên của Đức Quốc xã và từng là tình nhân của một sĩ quan Đức. Maria tình nguyện cho dịch vụ OSS với hy vọng có được sự minh oan. Maria tuyên bố có kinh nghiệm làm việc như một y tá trong các bệnh viện Đức và một nhân viên dịch vụ thực phẩm trong các phòng ăn tập thể của quân đội Đức.

OSS đánh giá Maria có giá trị cao để thực hiện các nhiệm vụ gián điệp bên trong nước Đức Quốc xã phục vụ cho quân đội Mỹ. Ngoài ra, Maria thông thạo cả tiếng Pháp và tiếng Đức.

Vào ngày 3-2-1945, Maria được đưa từ địa điểm huấn luyện OSS ở vùng núi gần Strasbourg đến một sân bay gần Lyon cho chuyến bay của cô và nhảy dù xuống lãnh thổ kẻ thù gần Stuttgart. Maria sẽ đi du lịch bằng cách sử dụng vỏ bọc là một y tá quân đội. Khi chuẩn bị lên máy bay, Maria đã khiến Viertel sững sờ với tiết lộ rằng cô đang mang thai bởi người yêu là… mật vụ Gestapo.

OSS bực tức yêu cầu một lời giải thích. Thời điểm làm báo cáo thực sự khủng khiếp bởi rất nhiều nỗ lực và tiền bạc đã được đầu tư vào nhiệm vụ. Maria trấn an Viertel rằng cô đã sẵn sàng và có thể thực hiện nhiệm vụ nhưng muốn OSS giúp phá thai khi cô trở về. 

Viertel đồng ý với yêu cầu của cô. Maria trở lại hai tuần sau với thông tin tình báo đặc biệt về vị trí cụ thể về một trụ sở của quân đội Đức, kế hoạch triển khai quân đội và các khu vực đóng quân. Nhiệm vụ rất thành công của Maria được đền đáp bằng việc phá thai, nhưng chỉ sau khi thuyết phục được một bác sĩ người Pháp bất đắc dĩ rằng Maria là người yêu nước.

Sự nghiệp Hollywood thời hậu chiến

Chiến tranh kết thúc, Peter Viertel trở lại Hollywood và viết kịch bản cho bộ phim gián điệp năm 1951 “Decision Before Dawn” (“Quyết định trước bình minh”), dựa trên cuốn tiểu thuyết “Call It Treason” được viết bởi đồng chí OSS của ông là George Howe. Bộ phim là sự kết hợp kinh nghiệm của Viertel và Howe trong hoạt động gián điệp sử dụng người gốc Đức của OSS. 

Một cuốn Soldbuch.

Câu chuyện được quay ở Đức và mô tả chân thực một đội quân gián điệp trẻ trung, lý tưởng với nhiệm vụ OSS bên trong nước Đức Quốc xã. Viertel tiếp tục hỗ trợ đạo diễn John Huston với kịch bản cho bộ phim kinh điển năm 1951 “The African Queen” (Nữ hoàng châu Phi).

Về sau, Viertel kết hôn với nữ diễn viên điện ảnh nổi tiếng Deborah Kerr. Gần 200 điệp viên OSS được đưa vào Đức Quốc xã từ nhiều địa điểm khác nhau trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến. Họ xâm nhập vào các thành phố lớn của Đức như Bremen, Munich, Mainz, Düssre, Essen, Stuttgart; và thậm chí cả Vienna và Berlin. Đội biệt kích OSS được đánh giá là thành công nhất trong việc cung cấp hỗ trợ trực tiếp cho chiến trường chống lại Đức quốc xã.

OSS thực hiện 44 nhiệm vụ nhảy dù phía sau chiến tuyến của kẻ thù trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 5-1945. Chiến dịch xâm nhập nước Đức Quốc xã được tổng kết với 36 thương vong bao gồm các điệp viên thiệt mạng hoặc mất tích. Peter Viertel qua đời ở tuổi 86 vào tháng 11-2007. 

Ông không chỉ để lại dấu ấn trong OSS, mà ở Hollywood với tư cách là một nhà văn, hợp tác với những người vĩ đại như Ernest Hemingway và John Huston để chuyển tiểu thuyết thành kịch bản và những bộ phim thành công.

Duy Ân (tổng hợp)
.
.