Hệ thống ngân hàng não bộ phục vụ nghiên cứu khoa học

Thứ Hai, 10/10/2016, 21:25
Mạng Ngân hàng Não của Hội đồng Nghiên cứu Y khoa Anh (MRC) bao gồm 10 trung tâm, hàng năm cung cấp hàng chục ngàn mẫu mô não phục vụ nghiên cứu khoa học ở Anh và nước ngoài.

Mạng Ngân hàng Não tiếp nhận 14.000 não bộ hiến tặng mỗi năm. Một bộ não có thể cung cấp hàng trăm mẫu mô cho nghiên cứu. Thậm chí, những bộ não hiến tặng cách đây 30 năm vẫn còn được sử dụng để nghiên cứu hiện nay.

Một trong hàng ngàn bộ não được cố định và đông lạnh trong ngân hàng não ở thành phố Bristol miền nam nước Anh là của bà Angela Carlson - phụ nữ hai lần góa bụa và không có con cái, qua đời vì bệnh Alzheimer lúc 89 tuổi tại hạt Dorset miền nam nước Anh. Người cháu Susan cho biết dì Angela của mình mắc chứng hoang tưởng kết hợp với Alzheimer và có nguyện vọng hiến tặng bộ não cho nghiên cứu khoa học sau khi qua đời.

Angela Carlson (trái).

Susan kể về người dì khốn khổ của mình: "Dì Angela là phụ nữ cô đơn luôn muốn giúp đỡ mọi người cho nên tôi cảm thấy có trách nhiệm thực hiện di chúc hiến tặng bộ não của bà cho khoa học. Những việc nhân ái mà dì Angela đã làm khi còn sống vẫn được tiếp tục khi bà qua đời".

Bộ não của Angela Carlson nằm trong số 14.000 bộ não hiến tặng được bảo quản lạnh trong Mạng Ngân hàng Não của MRC ở Bristol.

Giáo sư Seth Love - người phụ trách Mạng Ngân hàng não - tin tưởng vào vai trò quan trọng của những bộ não hiến tặng được bảo quản lạnh giúp đạt được một số tiến bộ trong y khoa: "Phần lớn kiến thức về bệnh liên quan đến thần kinh có được qua nghiên cứu trực tiếp trên mô não người cũng như phần lớn những tiến bộ về bệnh này chỉ có được trong 2-3 thập niên sau này - phần nhiều từ nghiên cứu những bộ não do ngân hàng não cung cấp".

Trong quá khứ, thực tế cho thấy việc nghiên cứu mô não người chết giúp y khoa đạt được một số tiến bộ ngoạn mục. Ví dụ như khám phá của Arvid Carlsson vào năm 1957 tiết lộ sự thiếu hụt các tế bào thần kinh sản sinh ra dopamine là nguyên nhân gây bệnh Parkinson, hay phát hiện của James Ironside năm 1996 về một dòng mới của bệnh Creutzfeld-Jakob (CJD - dạng bệnh thoái hóa não liên quan đến BSE hay bệnh bò điên).

Các bộ não được bảo quản trong hóa chất.

Tiến sĩ Tammaryn Lashley, nhà nghiên cứu bệnh mất trí nhớ ở Đại học College London (Anh), cũng khẳng định về tầm quan trọng của nghiên cứu mô não người chết hiến tặng: "Phương pháp scan não không giúp nghiên cứu ở cấp độ tế bào và không thể giúp chúng ta phát hiện được những gì đã diễn ra cho các tế bào não trong quá trình phát triển bệnh mất trí nhớ. Chúng ta thực sự cần quan sát mô não bên dưới kính hiển vi để xác định rõ sự hỏng hóc xảy ra ở chỗ nào".

Phương pháp bảo quản mô tiến hóa từ khi những ngân hàng não đầu tiên xuất hiện trong thập niên 1950. Lúc đó, mô não được cố định trong những hóa chất như là formalin. Phương pháp này vẫn được tiếp tục sử dụng cho đến ngày nay để làm cho một nửa phần não cứng lại để dễ dàng cắt ra từng lát cực mỏng cho phép nghiên cứu dưới kính hiển vi.

Một nửa phần não còn lại được cắt lát khi còn tươi và bảo quản ở nhiệt độ -80oC phục vụ cho nghiên cứu phân tích vật liệu di truyền, protein và các hóa chất thần kinh để từ đó có được kiến thức về sự tiến triển của bệnh liên quan đến thần kinh.

Các tổ chức như Brains for Dementia kêu gọi những bệnh nhân suy thoái thần kinh hiến tặng não sau khi qua đời cho nghiên cứu y khoa. Mạng Ngân hàng Não của MRC cũng quan tâm đến nhiều loại rối loạn thần kinh khác - bao gồm bệnh xơ cứng rải rác (multiple sclrosis), CJD, tự kỷ và tâm thần phân lập.

Nhưng bộ não hiến tặng từ người khỏe mạnh cũng quan trọng không kém giúp cho nhà nghiên cứu có được mẫu mô không mắc bệnh để so sánh với mô bệnh. Ví dụ, bộ não hiến tặng khỏe mạnh từ nữ giáo viên về hưu Margaret Allan.

Mới đây, Allan đăng ký hiến não cho Ngân hàng Não Queen's Square ở London. Allan là một trong những thành viên còn sống của dự án Điều tra Quốc gia về Sức khỏe và Phát triển - chương trình nghiên cứu dài hạn theo dõi 6.000 người từ lúc họ chào đời từ năm 1946. Bộ não của bà Margaret Allan đặc biệt có giá trị cao vì có thể giúp nghiên cứu lịch sử phát triển của nó trong suốt 70 năm.

Allan cho biết: "Khi chết đi, não của bạn không còn cần thiết nữa song có thể giúp nghiên cứu y khoa phát triển. Do đó, bạn hãy làm điều có ích cho khoa học. Tôi đã thuyết phục chồng và 2 con gái về điều tôi thực sự muốn làm". Giáo sư Seth Love nhận định sự hào phóng của những người như Allan và Angela cho phép khoa học giải quyết những bệnh gây gánh nặng cho xã hội như Alzheimer.

An Di (tổng hợp)
.
.