Áp lực học hành, nhiều sinh viên tự tử

Thứ Bảy, 02/04/2016, 11:05
Theo thống kê của Đại học Emory, bang Georgia, hàng năm, Mỹ có khoảng 1.000 sinh viên tự tử vì áp lực học hành. Tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), tỷ lệ tự tử trong thập kỷ qua là 10,2/100.000 sinh viên. Năm học 2013 - 2014, sáu sinh viên Đại học Pennsylvania tự chấm dứt cuộc đời. Trong năm học 2011 - 2012, có sáu vụ tự sát xảy ra tại Đại học Cornell.

Năm học này, Đại học Tulane mất bốn sinh viên, Đại học bang Appalachian mất ít nhất ba người. Tại Đại học New York, đã có năm sinh viên tìm đến cái chết. Báo chí Mỹ hồi mới đây cho biết.

Đại học Harvard tỷ lệ cao nhất

Thực tế, những năm gần đây, dưới áp lực học tập cùng sự cạnh tranh khốc liệt tại những trường hàng đầu thế giới như Đại học Harvard, nhiều sinh viên tự tử vì căng thẳng và không chịu nổi thất bại.

Christine, một sinh viên năm cuối tại Đại học Harvard, cho biết: “Tôi thà tự tử còn hơn phải nhận thất bại. Tôi hy vọng Harvard có thể cải thiện tình hình và dự định làm lại cuộc đời ở đây nhưng thật không dễ”, cô nói.

Nhiều người đã tìm đến con đường quyên sinh do áp lực học hành.

Nữ sinh này từng hai lần tự tử không thành trong năm học thứ hai. Từ thời trung học, Christine đã mắc chứng trầm cảm vì áp lực học tập quá lớn. Cô cho rằng, lên đại học, mọi chuyện sẽ ổn hơn. Tuy nhiên, áp lực của sự hoàn hảo khiến bệnh tình của nữ sinh thêm tồi tệ. Cùng với các tin xấu từ gia đình, cô chọn cách giải quyết tiêu cực. Cô không phải trường hợp duy nhất tại các trường đại học hàng đầu thế giới muốn dùng cái chết để chấm dứt tình trạng bế tắc.

Cách đây không lâu, Jason D. Altom, sinh viên khoa Hóa học hệ sau đại học tại Harvard, tự tử để chấm dứt những ngày tháng học tập căng thẳng. Nạn nhân để lại 3 bức thư tuyệt mệnh, chỉ trích giáo sư cố vấn từng giành giải Nobel đã đẩy anh đến bước đường cùng. Cái chết của Altom dấy lên câu hỏi rằng điều gì đang diễn ra tại những ngôi trường hàng đầu thế giới. Vụ tự tử là bằng chứng của áp lực học tập nặng nề cùng sự cạnh tranh khốc liệt. Chúng tồn tại ở nhiều đại học, đặc biệt với những nơi nổi tiếng.

Sinh viên Đại học Harvard luôn được đánh giá cao nhờ nỗ lực học tập.

Trên thực tế, Altom không phải người duy nhất tìm đến cái chết vì áp lực của sự hoàn hảo ở Harvard. Từ năm 1980, trường có 8 vụ tự sát. Paul J. Barreira, Giám đốc Trung tâm Y tế Harvard, cho biết, năm 2011, tỷ lệ sinh viên trường tự tử là 5/100.000 người, thấp hơn mức 6,18/100.000 người của sinh viên trên cả nước.

Thời trung học, Maggie Delano chưa bao giờ đạt điểm dưới 90 trong những lần thi cuối kỳ. Tuy nhiên, ngay trong kỳ đầu tiên tại MIT, cô chỉ đạt điểm 27 môn Vật lý và nhận kết quả loại D. “Tôi suy sụp hoàn toàn vì chưa từng thất bại”, nữ sinh nói. Đối với nhiều người, Harvard và MIT ở Mỹ là nơi khởi đầu lý tưởng cho một tương lai tốt đẹp. Nhưng với một số người, đây là cái nôi ngột ngạt, cướp đoạt tuổi trẻ, thậm chí tính mạng của họ.

Áp lực từ học hành

Harvard có ban cố vấn gồm những giáo sư đầu ngành chịu trách nhiệm giám sát và đánh giá quá trình hoàn thành luận văn nhằm đảm bảo sinh viên không quá phụ thuộc vào giáo sư hướng dẫn. Altom viết: “Nếu tôi biết trường có một ban như vậy, mọi chuyện đã không đi đến bước này”.

Sau cái chết của Jason D. Altom, nhiều người cố gắng tìm hiểu nguyên nhân đằng sau quyết định tiêu cực này. Bức thư của Altom khiến một số người chỉ trích và yêu cầu Giáo sư Elias J. Corey xem xét lại cách làm việc. Trên thực tế, 3 trong số 4 sinh viên khoa Hóa học tự tử, bao gồm Altom, là nghiên cứu sinh do ông Corey hướng dẫn. Giáo sư Corey là chuyên gia về hóa học phân tử, từng giành giải Nobel năm 1990.

Với kiến thức uyên bác, ông là lựa chọn hàng đầu cho những sinh viên muốn tốt nghiệp với kết quả hạng ưu. Tuy nhiên, vị giáo sư cũng yêu cầu rất cao. Những sinh viên từng được ông hướng dẫn khẳng định, nhóm nghiên cứu của Corey luôn mạnh nhất. Họ chọn ông vì muốn thử thách bản thân và tạo bước tiến lớn nhất.

Trong trường hợp của Altom, nhiều người cho rằng, lỗi nằm ở chính bản thân anh. Altom chọn đề tài khó nhất trong 3 đề tài giáo sư gợi ý, đồng thời không chọn người cùng làm như Corey đề nghị. Nam sinh tìm đến cái chết khi việc nghiên cứu không được như mong muốn, bản thân không thể hoàn hảo như kỳ vọng đồng thời cảm thấy giáo sư không đánh giá cao mình. Trong môi trường học tập quy tụ những sinh viên ưu tú, con người thường yêu cầu nghiêm khắc hơn với bản thân.

Một khi thất bại còn những người khác tiến dần tới thành công, họ càng dễ suy sụp, bi quan. Những cái chết trên giảng đường là vấn đề nan giải đối với ban lãnh đạo trường đại học.

Hầu hết các trường đều có trung tâm tư vấn sức khỏe tâm thần nhưng vì nhiều nguyên nhân, chúng không thể giải quyết vấn đề. Đại học không chỉ là nơi trau dồi kiến thức mà còn là nơi rèn luyện tố chất tâm lý. Sinh viên phải học cách chịu đựng áp lực, tự thoát khỏi căng thẳng và sẵn sàng chấp nhận thất bại trước mắt. Các vụ tự tử đôi khi cũng xuất phát từ áp lực do trường tạo ra.

MIT ước tính, mỗi sinh viên học 12 tiếng mỗi tuần cho khóa học gồm 12 tín chỉ. Trên thực tế, khóa học đòi hỏi nhiều thời gian hơn. Phần lớn sinh viên phải học khoảng 70 tiếng/tuần. Theo bảng xếp hạng của Niche, MIT đứng đầu Mỹ về mức độ vất vả của sinh viên. Đây cũng là tình hình chung tại các trường ưu tú.

Văn Nguyễn-S.H. (tổng hợp)
.
.