Những bí ẩn của nước mắt

Thứ Tư, 15/11/2017, 11:38
Ngay từ thời xa xưa người ta đã biết máu là chất lỏng quan trọng nhất của cơ thể con người, còn nước mắt thì không được chú ý đến lắm. Các từ điển bách khoa toàn thư cũng chỉ "điểm qua" về nước mắt hết sức sơ sài. Ý nghĩa sinh học của nước mắt đã vô tình bị sao nhãng…

Nhưng trong văn học cũng như trong tổng thể lịch sử nhân loại, nước mắt luôn được đề cập tới. Cuộc sống con người thật là vô nghĩa nếu như không có cảm xúc, nước mắt thể hiện một trong những thứ xúc cảm đó. Hằng hà sa số những giọt nước mắt đã đổ ra trong văn học - nghệ thuật xưa và nay, nước mắt hiện hữu giữa đời sống là một "hiện tượng đương nhiên"; những ai mất "khả năng khóc" - thật là bất hạnh.

Khoa học cũng chứng minh rằng, khóc là một điều tối cần để cân bằng tâm lý. Khóc không chỉ là biểu hiện bình thường, mà còn có lợi cho sức khỏe nữa. Con người là sinh vật duy nhất biết thể hiện cảm xúc qua nước mắt (nước mắt của loài cá sấu là một cơ quan dịch vị). Bạn chớ nghĩ rằng với sự phát triển tiến hóa của nhân loại, nước mắt không còn cần thiết nữa; mà ngược lại, nó vẫn luôn đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người.

Tuyến lệ.

Các nhà khoa học Mỹ ở Trường đại học Tổng hợp tiểu bang Minnesota đã dày công nghiên cứu về "sản phẩm duy nhất của cảm xúc con người", cho thấy nhiều điều hết sức ngạc nhiên. Nước mắt chứa đựng 2 hợp chất (cho đến nay khoa học vẫn không ngờ tới là những chất ấy có trong nước mắt). Hợp chất thứ nhất là leu-enkephalin, một chất giảm đau do cơ thể tiết ra lúc cần đề kháng.

Tác dụng của nó tương tự như á phiện, đúng hơn là morphine. Hợp chất này thường có nhiều trong dung dịch sọ não; hợp chất thứ 2 là prolactin (PRL), một loại nội tiết tố (hormone) được sản sinh trong não người, là chất kích thích sự tích tụ sữa cho những bà mẹ đang mang thai.

Một điều thú vị nữa là 2 hợp chất này chỉ có trong nước mắt những khi xúc động, còn thứ nước mắt chảy ra do cay như khi ta cắt hành lại hoàn toàn không có, chứng tỏ việc thể hiện cảm xúc bằng nước mắt đã được điều tiết - chỉ đạo từ  trái tim.

Dưới nhãn quan của các nhà y học thì việc chảy nước mắt là một quá trình riêng biệt của cơ thể, giống như sự bài tiết ra mồ hôi, tuần hoàn, hay hô hấp vậy. Người ta cũng chưa giải thích nổi tại sao trong nước mắt có chứa những chất giảm đau và tích sữa mẹ. Mặt khác, khóc - dù vui hay buồn - cũng làm giảm sự căng thẳng, giảm các triệu chứng của stress.

Trong nước mắt có chứa PRL và endorfin - sản sinh từ tuyến yên, là những chất làm giảm các tác động từ stress. Còn văn học gọi đôi mắt là "cửa sổ của tâm hồn" cũng phản ánh nguồn gốc có từ y học. Hơn 200 người đã tham gia thử nghiệm chương trình "Một tháng khóc ròng" của Trường đại học Minnesota nói trên.

Kết quả: 85% số phụ nữ và 73% số đàn ông cho biết, rằng việc "thường xuyên khóc" là một biện pháp giúp họ bớt được sự căng thẳng đi rất nhiều. Kết luận khoa học cho thấy nước mắt làm giảm tới 40% các hệ lụy từ stress. Số phụ nữ "hay khóc" nhiều gấp 5 lần nam giới và có tới 45% tổng số đàn ông không hề "rớt nước mắt" khi gặp các trạng huống nặng nề; tương tự chỉ có độ 6% phụ nữ "chai sạn" như vậy.

Trong lịch sử đã từng có thời kỳ nam giới "ham khóc" hơn. Trước đây hơn 2 thế kỷ tỷ lệ nam giới và nữ giới "hay nhè" là ngược lại bây giờ - vẫn theo các nhà khoa học ở Trường đại học tổng hợp Minnesota cho biết.

Vào thế kỷ XVIII, việc đàn ông khóc được coi là một "cử chỉ thánh thiện". Hồi đó bất cứ đấng nam nhi nào cũng không quên mang bên mình chiếc khăn mùi xoa viền đăng ten diêm dúa, để lau những giọt nước mắt "nóng hổi" luôn sẵn sàng rơi ra. Từ đó nước mắt được coi là một bằng chứng thể hiện tình cảm chân thành cùng sự cảm thông sâu sắc. Đến thời cách mạng kỹ nghệ, nước mắt lại được xem là một "biểu hiện đớn hèn" và rồi cánh mày râu không còn "ưa khóc" nữa…

Giọt nước mắt trung bình thường có kích thước cỡ hạt mận, ẩn trong tuyến lệ hiện hữu bên góc trên của mắt, bên dưới mí mắt. Mỗi lần ta chớp mắt - độ 13 lần trong một phút, đôi mi lại phủ một lớp dung dịch mỏng lên 2 nhãn cầu, chính thứ dung dịch này bảo vệ mắt khỏi bụi bặm cũng như những chất có hại khác trong không khí. Ngoài ra nước mắt còn bảo vệ "cửa sổ của tâm hồn" khỏi những hiểm họa khác nữa, bởi nó chứa sẵn nhiều nguyên tố kháng sinh.

Lịch sử chuẩn bệnh qua đôi mắt đã có từ lâu. Mắt tương phản với những căn bệnh trong cơ thể, như vàng mắt là biểu hiện cho một chứng bệnh về gan, đỏ mắt là hệ lụy từ sự nghiện rượu… Thần kinh mắt được trung tâm não bộ ưu tiên nhất - phản xạ nhanh nhạy nhất. Việc nghiên cứu nước mắt cũng cho thấy những căn bệnh tiềm ẩn. Khi phân tích nước mắt người ta biết được bệnh nhân có dùng thuốc phiện hay không, hoặc là ảnh hưởng của một vài loại tân dược mới với cơ thể người bệnh như thế nào?

Đàn ông thường bị bệnh về đường ruột và tim mạch nhiều hơn phụ nữ, bởi họ "ít khóc" hơn chăng? Một kết luận khác cũng của các nhà khoa học Mỹ là những người thường bị chứng stress đe dọa, vốn là những kẻ "quá kiên định", thường coi nước mắt là sự mềm yếu. Họ cố ngăn cho nước mắt chảy bằng mọi giá, nhất là ở những chốn ồn ào nơi công cộng - nguyên nhân trực tiếp gây ra chứng stress.

Khóc là một trong những hiện tượng bình thường nhất của thế gian này. Những ai cố ngăn cho nước mắt "chảy" hãy coi chừng các hệ lụy có hại cho sức khỏe về sau…

T.Q.Long (tổng hợp)
.
.