Gặp nữ thương binh ba lần bị địch cưa chân
Người phụ nữ kiên trung đó là bà Trần Thị Thanh Lịch (67 tuổi, ở xã Hoài Châu, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định).
Ba lần bị địch cưa chân
Vừa qua, chúng tôi vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định thăm và được nghe bà Lịch kể về cuộc đời hoạt động cách mạng đầy máu và nước mắt nhưng rất đỗi hào hùng của mình. Bà Lịch sinh trưởng trong một gia đình cách mạng, giàu lòng yêu nước, có 6 anh chị em, bà là con thứ 5.
Cha bà là chiến sĩ tập kết, mẹ và các anh chị em đều hoạt động cách mạng. Em trai bà đã hy sinh anh dũng, em gái bị thương nặng. Tận mắt chứng kiến lĩnh Mỹ và lính VNCH gây quá nhiều tội ác với gia đình, bà con mình, nên bà nung nấu quyết tâm trả thù.
Bà Lịch cho biết: “Tôi tham gia cách mạng từ năm 14 tuổi. Thú thật, tôi chẳng nghĩ gì nhiều, chỉ thấy bọn chúng gây quá nhiều tội ác với bà con mình, nên tham gia để có dịp trả thù cho họ. Tôi công tác ở đội binh vận với nhiệm vụ rải truyền đơn, nắm tình hình quân số, theo dõi các chốt điểm địch đóng quân để báo cáo tổ chức”.
Nữ thương binh Trần Thị Thanh Lịch. |
Tháng 2/1965, xã Hoài Châu được giải phóng, bà Lịch chuyển qua làm công tác đấu tranh chính trị đưa “Đoàn quân tóc dài” của xã vào quận lị Bồng Sơn xuống đường đấu tranh trực diện. Năm 1966, địch cho quân chiếm lại Hoài Châu, bà Lịch bám trụ trong lòng địch để thực hiện nhiệm vụ tổ chức đã giao. Giữa năm 1966, trong một chuyến công tác, bà bị tiểu đoàn 4, trung đoàn 40 của địch chặn bắt.
Tại đây, bọn chúng đánh đập, dọa nạt, dụ dỗ đủ điều nhưng không khai thác được gì. Sau đó, chúng chuyển bà về nhà lao Bồng Sơn tra khảo dã man như đóng đinh vào đầu gối, gí điện vào tay chân, thả rắn độc vào quần, xẻ thịt ở đùi, đổ xà phòng vào mắt, miệng nhưng cũng không có kết quả nên đành thả ra.
Năm 1967, bà Lịch được tổ chức cho đi học lớp y tá rồi về quê công tác. Lúc này, Hoài Châu là vùng trọng điểm chiến sự nên địch liên tục càn quét, bắn phá. Bà con nhân dân và các chiến sĩ bị thương rất nhiều, bà Lịch vừa điều trị cho họ, vừa tham gia chiến đấu.
Năm 1969, Đảng ủy xã Hoài Châu chỉ thị cho đội “Nữ quyết tử” do bà Lịch làm đội trưởng phải diệt bằng được tên ác ôn ở xã đã gây nhiều tội ác cho bà con nhân dân. Bà Lịch kể: “Tháng 11/1969, tôi cùng với đồng chí Mai, đồng chí Hoa nhận nhiệm vụ và vạch ra kế hoạch chi tiết tiêu diệt tên ác ôn Thân. Hắn là người thích uống rượu, lại hám gái nên cả đội quyết định dùng mỹ nhân kế để trừng trị hắn.
Mọi việc diễn ra như dự tính, đến lúc ra tay thì quả lựu đạn do Mai quẳng vào bàn nhậu của hắn lại không nổ. Mai vụt chạy vào xóm, hắn cầm súng đuổi theo. Lúc đó, tôi dùng khẩu K54 bắn vào tên ác ôn nhưng hắn chỉ bị thương ở cổ. Sau đó, tôi bị đồng bọn của hắn truy đuổi, bắn bị thương ở chân và đưa về bệnh viện dã chiến tại Quy Nhơn”.
Những lúc khỏe trong người, bà Lịch ở nhà trông nom cháu để các con đi làm. |
Tại đây, bọn địch dùng mọi thủ đoạn, mọi kiểu tra tấn để buộc bà Lịch khai ra tổ chức. Nhưng trong suy nghĩ của bà, đằng nào cũng chết, không thể phản bội đồng đội, phản bội lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” nên nhất quyết không khai. Thế rồi, chúng đưa bà lên phòng mổ, cưa chân trái như cưa một khúc gỗ. “Khi tỉnh dậy, tôi thấy cổ chân trái tê buốt, bàn chân đã không còn nữa. 7 ngày sau, khi vết thương còn rỉ máu, chúng lại đưa tôi lên phòng xét hỏi.
Vẫn những câu hỏi lặp đi lặp lại: “Tổ chức của mày ở đâu? Do ai cầm đầu?” và cái chúng nhận lại cũng chỉ là câu “Tôi không biết gì hết”. Chúng lại giở bài cũ, cưa chân trái tôi lần thứ hai, lần này chúng cưa lên tận đầu gối. Đúng 7 ngày sau, không khai thác được tôi, bọn mặt người dạ thú lại cưa chân tôi lần thứ 3, chân trái của tôi đã vĩnh viễn đứt lìa khỏi thân thể”, người nữ thương binh kể.
Để bọn ác ôn thấy rằng những đòn tra tấn dã man không thể khuất phục ý chí của người cộng sản kiên trung, bà Lịch đã làm thơ thể hiện ý chí của mình trước kẻ thù: “Dù thân ta treo trên đôi nạng gỗ/ Dù đường đời gian khổ quá nhiều/ Tủi thân cho cảnh tiêu điều/ Cùng đôi nạng gỗ tôi dìu tiến lên/ Chân tôi bước, Đảng đứng bên/ Thề cùng Tổ quốc tiến lên không ngừng”.
Chuyện bà Lịch ba lần bị bọn ác ôn cưa chân đã lan truyền khắp nơi. Tổ chức quyết định bằng mọi cách phải cứu sống bà. Để giải thoát cho bà, tại nơi giam giữ, cơ sở đã bí mật cho bà uống thuốc mê, sau đó bỏ vào quan tài rồi đưa thẳng về xã Hoài Châu.
Bà Lịch kể: “Theo kế hoạch, tôi được đồng chí, đồng đội bỏ thuốc mê bất tỉnh. Bọn địch tưởng tôi đã chết nên không tra tấn nữa. Sau đó, đồng chí của tôi bí mật lẻn vào doanh trại của địch, bỏ tôi trong quan tài rồi đưa thẳng về quê ở Hoài Châu. Nhờ thế mà tôi may mắn sống sót đến ngày hôm nay”.
Thương binh tàn nhưng không phế
Tháng 2/1970, bà Lịch trở về xã Hoài Châu và xin tiếp tục hoạt động khi vết thương chưa lành hẳn. Các đồng chí lãnh đạo rất hoan nghênh tinh thần anh dũng nhưng lại không muốn để bà tiếp tục dấn thân vào nguy hiểm. Bà cố thuyết phục và khẳng định rằng, dù bị mất một chân nhưng vẫn còn khỏe.
Bà nói: “Kẻ thù cưa chân thành ba khúc, không cho đi làm cách mạng nữa, tôi càng phải tiếp tục hoạt động. Tôi không thể sống mà không làm việc, tôi sẽ làm việc gấp hai, gấp ba để bọn địch thấy rằng chúng không thể nào khuất phục được ý chí cách mạng”.
Sau những lời khẳng định đầy đanh thép, nguyện vọng của bà Lịch cũng được chấp nhận. Bà xin đảm trách ba công việc là phụ trách công tác y tế tại xã, dạy văn hóa cho các cháu thiếu nhi và mở lớp dạy cứu thương.
Tuổi già, vết thương cũ tái phát, nhưng bà Lịch vẫn bếp núc như những người phụ nữ bình thường khác. |
Bà Lịch cho biết: “Ban đầu, các đồng chí hơi ngại vì tôi tham việc quá nhưng khi tôi đưa ra kế hoạch làm việc thì họ gật đầu đồng ý. Từ đó, với chiếc nạng gỗ, tôi đi khắp các xóm làng chăm sóc thương binh, đồng thời lên lớp dạy cứu thương và dạy văn hóa cho các em nhỏ”. Công việc vô cùng khó khăn đối với bà khi chỉ còn một chân mà phải di chuyển trong hang đá, khe núi nhưng bà luôn lạc quan để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Đến giữa năm 1973, bà Lịch được Ban đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên dương “Chiến sĩ thi đua” toàn ngành dân y Khu V. Tháng 4/1974, bà được đưa ra Hà Nội chữa trị, học tập và tham gia tố cáo tội ác của lính Mỹ - VNCH.
Tại đây, nhiều cán bộ, thương binh, bệnh binh được bà chữa trị đã tới thăm hỏi, ôn lại kỷ niệm xưa. Có người còn làm thơ về bà, bài thơ đó sau này được nhạc sĩ Thanh Tùng phổ thành ca khúc “Hương đất”. Bài hát có đoạn “Về một người con gái/ Trung kiên đất Hoài Châu/ Ba lần giặc cưa chân... Trần Thanh Lịch chị ơi/ Tuổi xuân dâng đất nước/ Tình yêu cho quê hương”.
Cũng trong năm 1974, tại trại an dưỡng K65 ở Sơn Tây, bà Lịch gặp ông Trần Việt Cường (quê ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Tại đây, cả hai thỉnh thoảng kể cho nhau những chiến công và cả những mất mát, đau thương. Dường như chính điều đó là sợi dây vô hình nối chặt tình cảm hai người lại với nhau. Sau một thời gian, ông Cường quyết định thổ lộ tình cảm với bà.
Niềm vui lớn nhất bây giờ của người nữ thương binh là hằng ngày được vui vầy bên gia đình. |
“Lúc đầu, tôi vô cùng bất ngờ, tưởng anh Cường đùa cho vui nhưng qua thái độ kiên quyết, tôi biết anh thật lòng. Năm 1975, lễ cưới đơn giản nhưng tràn ngập hạnh phúc của tôi và anh Cường được tổ chức ngay tại Thủ đô Hà Nội”, người nữ thương binh cho biết.
Đất nước giải phóng, bà Lịch trở về Bình Định và được phân công làm tại Ban Bảo vệ sức khỏe tỉnh Nghĩa Bình. Tuy chỉ còn một chân nhưng bà làm rất nhiều nghề như mua bán nhỏ, phụ xắt thịt bò cho các tiệm phở, nuôi heo, mở tiệm phở. Ngoài ra bà còn hăng hái tham gia công tác Hội Phụ nữ tại địa phương. Hàng ngày, cùng với đôi nạng gỗ, bà tới từng nhà vận động chị em tham gia công tác Hội. Chính bà là người khởi xướng việc gây quỹ xây dựng tổ tiết kiệm tương trợ giúp đỡ chị em nghèo vượt khó, vươn lên.
Năm 1988, bà Trần Thị Thanh Lịch vinh dự được Nhà nước đã trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì. Năm 2001, được mời tham dự cuộc gặp mặt “Phụ nữ 2 giỏi” tại Thủ đô Hà Nội. Được Bộ trưởng Bộ Y tế tặng Huy chương Vì sức khỏe nhân dân. Niềm vui lớn nhất của bà giờ đây là có được người chồng luôn quan tâm chăm sóc cho mình và hai người con đã yên bề gia thất, cùng với những đứa cháu ngoan hiền.