Kể chuyện bắt cọp ở thung lũng Lòn Bon

Thứ Ba, 02/02/2010, 03:25
Khắp bốn phương, tám hướng, tiếng chiêng, tiếng trống âm vọng dồn dập hòa cùng tiếng phèng la rền rĩ, tiếng mỏ inh ỏi, khiến cho chúa sơn lâm trong vòng vây cuống cuồng tìm đường thoát thân. Nhưng, dù có gắng hết sức bình sinh, nó vẫn không sao nhảy qua được hàng rào cây khá chắc chắn, cao đến 4-5 thước.

Nó gầm thét điên cuồng và tiếp tục chạy vòng quanh, trong khi vòng vây hàng rào được hàng trăm người bên ngoài nhích khép dần lại. Cuối cùng, “Chúa sơn lâm” tự tra đầu vào chiếc thòng lọng bện bằng tre cật, trong tiếng hò reo của phường săn…

Từ chuyện khước từ Ngô Đình Diệm...

Lòng sông ngổn ngang đá cục, đá hòn từ đầu ghềnh tới cuối bãi. Có lẽ vì thế mà sông mang tên Đá Giăng. Trước khi đổ ra sông Tiên để chảy về sông mẹ Thu Bồn xuôi biển Cửa Đại, sông Đá Giăng uốn lượn qua một ngôi làng trù phú màu xanh cây trái, lọt thỏm trong thung lũng được vây bọc bởi những quả núi mang nhiều cái tên rất riêng biệt, như: Bà Bướm, Hố Chò, Bàn Mây, Gò Chè, Rừng Cấm, Đá Ràn Dàn… Đó là làng Lộc An, hay còn gọi Lộc Yên, thuộc xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, Quảng Nam.

Những ngọn núi nghìn năm tuổi sừng sững giữa đất trời mà các thế hệ người làng Lộc An đều xem như chứng nhân của bao cuộc vây bắt chúa sơn lâm; khắc ghi tình đoàn kết bền chặt của các gia đình sinh sống nơi miền sơn cước, cùng nhau chống chọi với ác thú, bảo vệ sự yên ổn cho xóm làng, không phụ lòng mong ước của các bậc tiền nhân thuở khai hoang lập ấp…

Lối đi lát đá đầy rêu xanh dẫn vào các ngôi nhà cổ ở Lộc An.

Chúng tôi về làng Lộc An giữa mùa lòn bon chín, như lạc vào chốn thế ngoại đào viên trong chuyện cổ tích. Mùi hương thơm đầy quyến rũ của lòn bon chín thoảng trong gió lan khắp làng Lộc An yên ả, thanh bình, cứ như mời gọi khách đường xa... Tương truyền, trái lòn bon đã cứu đói vua tôi nhà Nguyễn trên bước đường lưu lạc nên được ban cho cái tên Nam Trân (trái quý phương Nam). Và, nó đã được đôi bàn tay của những người thợ đúc đồng tài hoa khắc hình lên Cửu Đỉnh đặt trước Thế Miếu ở kinh thành Huế. Mùa lòn bon chín, cả một vùng thung lũng rộng lớn làm thế đứng cho làng Lộc An đầy ắp tiếng chim hót.

Dường như đã thành thông lệ, cứ đến mùa lòn bon chín là các loài chim rủ nhau bay về ăn lòn bon, hót véo von cả ngày trong những vườn cây xanh mát. Đi theo lối nhỏ, lát đá bám đầy rêu xanh, với hai bên là những hàng cây lòn bon cao ngất, tán lá um tùm, lủng lẳng những chùm lòn bon chín vàng rực, chúng tôi vào nhà cụ Nguyễn Huỳnh Anh. Đây là một trong số hàng chục ngôi nhà cổ được xây dựng khoảng 150 năm đến 200 năm về trước.

Cũng như những ngọn núi nghìn tuổi ngoài kia, những ngôi nhà cổ trở thành chứng nhân của nhiều thế hệ về việc kết đoàn rủ nhau vây bắt mãnh thú. Hàng chục ngôi nhà cổ kính ấy vẫn tồn tại qua bao cuộc chiến tranh tàn khốc và cả trong cơn lốc "bán nhà cổ, dựng nhà hộp" của thời kinh tế thị trường cũng là do ý chí ghi nhớ công ơn tiền nhân đã cất công xây dựng cơ nghiệp của con người Lộc An. "Tổ tiên đã đổ mồ hôi, nước mắt dựng nhà nên dẫu có đói, có nghèo cũng phải giữ gìn. Không vì tham lợi mà phá bỏ dấu tích người xưa…".

Ý chí đó được lưu truyền, khắc cốt ghi tâm qua nhiều đời, nhiều thế hệ nên cũng vì vậy mà cụ Nguyễn Huỳnh Anh đã bất chấp sự đe dọa của quan quyền địa phương, khước từ thẳng thừng không chịu bán ngôi nhà cổ kính của gia đình mình cho vị Tổng thống của cái gọi là nền đệ nhất cộng hòa ở miền Nam - Ngô Đình Diệm.

Chúng tôi như bị hút hồn trước những hình thù chạm khắc độc đáo, với đường nét rất tinh xảo trên những vì kèo của ngôi nhà cổ kính đã gần 200 năm tuổi. Các vì kèo đều là gỗ mít ròng, cả 36 cây cột to cỡ người ôm cũng bằng gỗ mít, theo thời gian đã "lên nước" láng coóng... Hèn gì một người quyền cao, chức trọng như Ngô Đình Diệm đã cất công tới tận mảnh đất heo hút này.

Nhớ lại chuyện cũ, anh Nguyễn Đình Hoan, người con thứ 10 - con trai út của cụ Anh, hiện đang là người thừa kế ngôi nhà, kể rằng: Lúc sinh thời ông nội và cha anh cũng thường nói chuyện cho con cháu hiểu về lai lịch ngôi nhà. Nó đã được đôi bàn tay tài hoa, khéo léo của những người thợ mộc, thợ điêu khắc giỏi của làng mộc Vân Hà xây dựng nên. Những đường nét chạm trổ độc đáo, tinh xảo đó đã mê hoặc Ngô Đình Diệm, làm ông ta đã mất bao tâm sức tìm cách gạ mua nhà, song đều thất bại.

Ngôi nhà cổ của Cụ Nguyễn Huỳnh Anh đã 2 lần Ngô Đình Diệm hỏi mua không được.

Lần thứ nhất, vào năm cụ Anh vừa mới cưới vợ, Ngô Đình Diệm còn là Thượng thư Bộ lại của triều đình Vua Bảo Đại. Nghe viên tri huyện Tiên Phước "mách nước", Diệm không quản đường xa vạn dặm lặn lội về huyện đường Tiên Phước, rồi cưỡi ngựa, kéo theo đám quân hầu tiền hô, hậu ủng lên tận làng Lộc An. Tới nơi, họ Ngô đi đi, lại lại ngắm nghía ngôi nhà một hồi ra chiều ưng ý lắm, bèn cò kè trả giá 1.500 đồng tiền Đông Dương. Số tiền có thể mua được 50 con trâu mộng, hoặc gần 400 tấn lúa, nhưng cụ Anh lúc đó mới là anh thanh niên tuổi chưa tròn 23, đã khẳng khái trả lời rằng, ngôi nhà là do tổ tiên cất công xây dựng nên phải để lại thờ phụng, hương khói. Họ Ngô nổi giận đùng đùng bỏ về. Ngày hôm sau, Tri huyện Tiên Phước có trát đòi xuống, ra lệnh phải bán nhà cho "cụ Thượng", nhưng cụ Anh vẫn nhất mực không nghe.

Thế là cứ năm bữa, nửa tháng, Tri huyện lại gửi trát đòi cụ Anh tới huyện đường dọa dẫm, phỉnh dụ đủ điều. Thậm chí, ông ta còn nhờ vả bà con thân tộc khuyên can cụ Anh bán nhà cho Diệm để khỏi chuốc họa sát thân. Nhưng, nói thế nào cũng không lay chuyển ý chí sắt đá của cụ Anh nên cuối cùng viên Tri huyện làm ngơ cho qua… Tưởng rằng đã xong, nào ngờ khi lên chức Tổng thống của cái gọi là nền đệ nhất cộng hòa, Ngô Đình Diệm lại truyền "ý chỉ" cho viên Thiếu tá Quận trưởng Tiên Phước Trần Ninh, dẫn theo lính tráng súng ống đầy mình phò tá "Bà cố vấn" - Đệ nhất phu nhân của Việt Nam Cộng hòa Trần Lệ Xuân, lên Lộc An hỏi mua ngôi nhà cổ của cụ Anh lần nữa.

Ngoài cái giá hơn 20 triệu bạc Sài Gòn, cô em dâu của Diệm (Trần Lệ Xuân là vợ của Ngô Đình Nhu), còn mềm mỏng rằng, sẽ xây biếu gia đình cụ Anh một ngôi nhà cao tầng ở Tam Kỳ, thủ phủ tỉnh lị Quảng Tín bấy giờ. Nhưng, cụ Anh vẫn lắc đầu. Mồm mép, xảo quyệt như Trần Lệ Xuân được Ngô Đình Cẩn coi là hồ ly Đắc Kỷ, cũng đành phải ra về tay không… Cho đến lúc ngoài tuổi 90, trước khi qua đời, cụ Anh dặn dò anh Hoan rằng có nghèo đói, thiếu thốn cùng cực cũng đừng bao giờ bán ngôi nhà mà tổ tiên truyền lại…--PageBreak--

...đến chuyện vây bắt cọp

Ngôi nhà cổ của cụ Anh truyền tới đời anh Hoan là thế hệ thứ tư. Từ thuở tổ tiên khai hoang, mở đất lập làng đến đời cụ Anh đều tham gia những cuộc săn bắt cọp kinh thiên động địa. Chỉ tiếc ngày nay rừng ở Tiên Cảnh đã cạn kiệt, thú dữ cũng không còn đất sống nữa. Ông Đoàn Hứa (78 tuổi) bỏ lửng câu nói, bước lại mở cửa buồng để lấy vũ khí, phương tiện săn bắt cọp ông còn giữ lại làm kỷ niệm mang ra cho chúng tôi xem. Ông Hứa ở Vườn Đơn, Tiên Cảnh, là lớp đàn em của cụ Anh. Bây giờ, ở đất này những cụ già tham gia vây bắt cọp ngày xưa còn sống như cụ Hứa chỉ đếm được trên đầu ngón tay...

Cụ Đoàn Hứa (bên phải) cùng con trai với những cây giáo, lưới gai bắt cọp một thời.

Thoạt đầu, chúng tôi nghĩ vũ khí, phương tiện săn bắt chúa sơn lâm phải ghê gớm lắm, nhưng được cụ Hứa cho "chộ" thì hóa ra quá đơn giản. Đó chỉ là tấm lưới mắt cáo được bện bằng dây gai rắn chắc, một cái cây có thòng lọng bện bằng tre cật và những cây giáo, cán mòn thín, cứng như thép nguội. "Những thứ này nếu chỉ đơn lẻ mỗi một gia đình thì không thể làm gì cọp được, nhưng cả làng kia, xã nọ kết hợp lại nó có sức mạnh vô biên". Nói đoạn, ông Hứa chậm rãi kể lại…

Năm tròn 14 tuổi, ông đã tham gia đội săn cọp, cùng với phường săn bắt được con cọp nặng 3 người khiêng. Sau đó hai năm, đội săn của ông Hứa phối hợp với đội săn làng Phước Lộc bên kia sông Đá Giăng tiếp tục bắt được một con cọp khác lớn hơn, nặng đến 4 trai làng lực lưỡng, sức khỏe hơn người mới khiêng nổi. Thời ấy, thợ săn đưa cọp về làng mổ thịt thì lập tức quan huyện tìm tới mua bộ da và xương. Tất nhiên, thợ săn phải bán cho các quan với cái giá như cho không.

Theo lời ông Hứa: Vùng rừng núi Tiên Phước xưa kia rậm rạp, thâm u, cọp kéo về rất nhiều. Đêm đêm chúng thi nhau gầm rung chuyển núi rừng, rồi mò vào tận các làng mạc bắt heo, trâu, bò ăn thịt. Cũng vì thế mà các đội săn cọp được hình thành, ngõ hầu bảo vệ sự yên ổn cho làng xóm. Chỉ cần người dân đi làm rẫy phát hiện ngọn núi nào có cọp về ẩn nấp, lập tức báo tin các đội săn kéo tới. Ban đầu, phường săn chặt cây, dùng lưới gai vây bít những đoạn trống quanh quả núi có cọp. Con cọp hung ác nhưng thấy chặn đường, lưới vây là nó không dám thoát ra.

Sau khi đã giữ được cọp lại, các thợ săn tiếp tục hè nhau chặt mây và cây rừng buộc thành những tấm hàng rào chắc chắn cao đến bốn, năm thước. Khi hàng rào làm đủ vây quanh núi, nó được thay thế vòng vây lưới gai. Các thợ săn mang giáo, thòng lọng, chia nhau khép dần vòng vây hàng rào lại. Khi chỉ còn cách trung tâm hơn chục thước đã thấy rõ con cọp bên trong rào lồng lộn, gầm rú điên cuồng. Nó chạy vòng quanh lấy trớn để phóng qua hàng rào. Nhưng, lúc này hàng rào được thợ săn đóng trụ choãi rất chắc chắn từ phía bên ngoài nên con cọp phóng tới đập vào không sao nhúch nhích và cũng không thể vượt qua được. Bên ngoài, các thợ săn vừa nhích khép hàng rào, vừa khua chiêng, đánh trống rầm trời; tốp thì gõ mõ, đánh phèng la inh ỏi càng làm cho cọp sợ hãi, lồng lộn.

Đến khi khép hàng rào lại chỉ còn cách trung tâm năm, bảy mét, các thợ săn tay cầm giáo chờ chực bên ngoài. Một số khác cầm cây có thắt thòng lọng bện tre cật đưa vào trong. Cứ thấy cọp chạy sát hàng rào, họ lập tức phóng mũi giáo vào nó. Bị mũi giáo thọc đau, con cọp càng phát hoảng, chạy vòng bất kể các vật cản trước mặt và thế là đưa đầu vào thòng lọng. Ngay lập tức, các thợ săn cầm thòng lọng lôi mạnh, ép chúa sơn lâm vào hàng rào để những người cầm giáo ra tay...

Các cụ già ở Tiên Cảnh cũng lưu truyền chuyện cha đẻ ông Hứa là cụ Đoàn Muộn, một mình bắt được một con cọp to ở núi Đá Vách. Số là ngày đó cụ Muộn nuôi đàn chó để giữ rẫy, cọp nhiều lần mò vào bắt chó ăn thịt nên bén mùi. Ông cụ bèn nghĩ ra kế, làm một nhà chòi chắc chắn tạo thành cái lồng có cửa sập, đêm xuống bắt một con chó treo trong đó để nó kêu dụ cọp vào. Nấp chỗ an toàn rình canh cọp mò vào bắt chó, ông giật dây cho cửa sập xuống, cột chặt lại. Thế là nhốt được cọp trong chòi. Mấy ngày sau, cọp đói lả nằm bẹp, dân làng kéo lên dùng giáo hạ nó đưa về chia thịt...             

Những người bạn cùng trang lứa với cụ Hứa, cụ Anh như cụ Đoàn Xinh, cụ Nguyễn Nãi... của các phường săn ở Tiên Cảnh ngày trước, còn kể thêm cho chúng tôi nghe rằng, khi thấy các thợ săn ở Lộc An, Vườn Đơn vây bắt cọp có kết quả, các quan tri huyện Tiên Phước mới "sức dân" mỗi năm mở hội bắt cọp một lần vào mùa xuân. Thời gian diễn ra lễ hội có lúc 5-7 ngày, có khi đến 10-15 ngày, tùy theo quyết định của người chỉ huy ở hiện trường về phân công vây bắt chúa sơn lâm.

Cứ đến mùa xuân, phát hiện chỗ nào có cọp về bắt trâu bò, gia súc, người dân báo cáo cho lý trưởng để thông tin cho chánh tổng ra lệnh nhân dân trong xã có cọp và các xã lân cận khẩn cấp hợp sức vây cọp bằng biện pháp của các thợ săn Lộc An. Sau đó, chánh tổng mới trình tấu sự việc lên các tri huyện, mời tri huyện và các nha môn đến dự hội vây cọp. Từ đây, tri huyện Tiên Phước cũng thông báo các huyện xung quanh đưa dân cùng tới tham gia lễ hội.

Trong thời gian diễn ra hội vây cọp, người dân còn tổ chức giao lưu bằng các điệu hát hò khoan giao duyên, hò khoan đối đáp... Đôi mắt xa xăm nhớ lại một thời thanh niên trai tráng làm thợ săn vây bắt cọp; hoặc tham dự hội bắt cọp mùa xuân hát hò khoan đối đáp, giao duyên với những cô gái trẻ, các cụ già ở Lộc An đều chép miệng tiếc rằng, ngày nay rừng không còn nữa nên cọp cũng bỏ đi lên núi cao, rừng thẳm. Lớp con cháu của họ cũng ít người biết được lễ hội vây cọp độc đáo như vậy...

Bất chợt, thoảng nghe có tiếng thở dài rằng: "Mãnh hổ nan địch quần hồ". Oai dũng như “Chúa sơn lâm” cũng thua tài trí và tình đoàn kết gắn bó của con người bảo vệ cộng đồng...

Long Vân
.
.