“Lời ru buồn” ở biên giới Việt – Lào

Thứ Năm, 28/09/2017, 08:52
Xuất phát từ phong tục, tập quán lạc hậu và do đói nghèo, trình độ dân trí thấp dẫn đến tại các huyện biên giới miền Tây xứ Nghệ, tình trạng tảo hôn vẫn đang diễn ra. Những bà mẹ trẻ con với lời ru buồn ngày ngày vẫn cất lên sau những nếp nhà sàn vương khói bếp, xa vắng và vô định...

Xót xa lời ru trên nương

Bản Phá Lõm, xã Tam Hợp, huyện Tương Dương (Nghệ An) nằm trong khu vực vùng lõm biên giới Việt-Lào, có 100% là đồng bào Mông, bà con sinh sống chủ yếu bằng làm rẫy, cuộc sống từ trước đến nay theo lối du canh, du cư, phụ thuộc vào thiên nhiên là chính.

Đến với bản làng giáp biên này, không khó để bắt gặp vô số những bà mẹ trẻ con, vô tư vừa địu con trên lưng, vừa làm việc nhà, thoạt trông cứ ngỡ là chị trông em khi bố mẹ vắng nhà. Kỳ thực, đó là những bà mẹ nhí, mới 13-14 tuổi nhưng đã gánh thiên chức là những người vợ, người mẹ.

Bỏ lại sau lưng sách vở, trường lớp và cả những tiếng nô đùa vô tư của bạn bè cùng trang lứa, lời ru buồn đã văng vẳng cất lên sau những ngôi nhà sàn nhấp nhô bên sườn núi.

Những bà mẹ trẻ con ở miền Tây xứ Nghệ.

Theo chân những chiến sĩ Công an huyện Tương Dương cắm bản ở Tam Hợp, chúng tôi tìm đến gia đình vợ chồng Xồng Y Xua và Lầu Bá Kỷ, năm nay cùng 17 tuổi ở bản Phá Lõm.

Cách đây 3 năm, vào năm 2014, Xua và Kỷ nên nghĩa vợ chồng với nhau khi vừa bước sang tuổi 14. Kết hôn nhưng chưa đủ tuổi đăng ký nên vợ chồng chỉ làm vía với nhau, được sự đồng ý của gia đình hai bên rồi Xua về ở với gia đình nhà chồng. Thời điểm chúng tôi tìm đến, Y Xua đang ôm đứa con nhỏ hơn hai tuổi, ngồi dưới chái bếp nhìn ra bên ngoài mắt buồn xa xăm.

Người mẹ trẻ này chia sẻ, cháu bé sinh ra không đủ cân nên ốm đau liên miên, bản thân cũng chẳng biết làm việc gì nên suốt ngày chỉ ở nhà bồng con, trong khi chồng lên nương rẫy cùng với bố mẹ.

“Năm đó, em đang học dở lớp 7 thì bỏ ngang để lấy chồng. Lập gia đình nhưng hai vợ chồng cùng con nhỏ sống phụ thuộc vào bố mẹ hai bên. Bản thân em cũng chưa bao giờ lên rẫy, xuống suối nên chẳng biết làm gì ngoài việc chăm con, chuẩn bị cơm canh ngày hai bữa đợi chồng đi làm về”, Xồng Y Xua chia sẻ.

Cách đấy không xa, cũng ở bản Phá Lõm là cặp vợ chồng trẻ con Hờ Y Mỉ và Lầu Bá Chống. Trước đó, trên đường vào bản, chúng tôi bắt gặp Mỉ đang địu con rửa rau ngay con suối đầu bản. Nhìn dáng sơn nữ nhỏ gầy, gương mặt phảng phất nét u buồn này, chẳng ai trong chúng tôi nghĩ rằng, em đã lấy chồng bởi năm nay Mỉ vẫn chưa tròn 13 tuổi.

Cũng như nhiều sơn nữ khác, lấy chồng nhưng không hề ý thức được những trọng trách to lớn mà mình phải gánh vác khi trở thành vợ người ta, Mỉ vô tư theo chồng về làm dâu nhà người khi vẫn còn vụng dại ngay cả với việc chăm sóc mình. Chồng Mỉ, thời điểm kết hôn cũng chỉ mới 16 tuổi, lấy vợ cũng theo kiểu “thích thì cưới”, vợ chồng về với nhau có bố mẹ chăm lo nên chẳng cần nghĩ tương lai sẽ làm gì để trở thành trụ cột của gia đình.

Ông Nguyễn Anh Minh, Chủ tịch UBND xã Tam Hợp cho biết: Vợ chồng Xua - Kỷ và Mỉ - Chống chỉ là 2 trong số 33 cặp vợ chồng tảo hôn trên địa bàn xã biên giới này trong 3 năm gần đây, trong đó có 6 cặp kết hôn ở thời điểm dưới 13 tuổi. Nguyên nhân chủ yếu, theo ông Chủ tịch xã, là do phong tục, tập quán của đồng bào dẫn đến công tác tuyên truyền, vận động gặp không ít khó khăn. Tâm lí ngại va chạm, cả nể và việc xử lý về mặt pháp luật đối với vấn đề tảo hôn gần như chưa thực hiện được, mới chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, vận động là những nguyên nhân chính dẫn đến tảo hôn ở xã biên giới Tam Hợp ngày càng gia tăng.

13 tuổi, bé gái đã làm vợ, làm mẹ không phải là hi hữu ở miền Tây xứ Nghệ.

Không riêng gì Tam Hợp, thực trạng sớm chồng, sớm vợ ở các xã dọc biên  giới Việt – Lào ở huyện Tương Dương như các xã Mai Sơn, Nhôn Mai tình trạng tảo hôn cũng đang hết sức nhức nhối. Theo thống kê, chỉ tính riêng trong thời gian 3 năm qua, trên địa bàn huyện Tương Dương đã có 97 cặp vợ chồng kết hôn khi đang trong độ tuổi vị thành niên, trong đó có 84 cặp nên nghĩa vợ chồng trong thời gian từ đầu năm 2016 đến nay.

Cũng ở khu vực miền Tây Nghệ An, ở một địa phương khác có tới ba mặt giáp Lào là huyện Kỳ Sơn, không chỉ nhức nhối tình trạng tảo hôn mà nơi đây còn tồn tại hiện tượng hôn nhân cận huyết, dẫn đến nhiều hệ lụy cho xã hội. Bản Huồi Lê nằm sâu trong khu vực giáp biên của xã Keng Đu, nơi chỉ cách biên giới chưa đến 10km đường chim bay.

Khi đề cập đến vấn đề tảo hôn và hôn nhân cận huyết, Chủ tịch UBND xã Lương Văn Ngam chỉ nói một câu rất ngắn gọn: “Nhiều lắm”, rồi cử cán bộ thôn bản dẫn chúng tôi đến nhà của cặp vợ chồng Lương Thị May và Ven Văn Tùng. Cách đây 4 năm, May về làm dâu khi vừa tròn 15 tuổi, điều đáng quan tâm là người chồng hiện tại của May cũng chính là người anh con cô con cậu.

Đến nay, hai vợ chồng đã có một cháu bé gần 3 tuổi, trong ý niệm của hai vợ chồng cũng như gia đình hai bên, chưa từng nghĩ đến những hậu họa về hôn nhân cận huyết sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển, duy trì nòi giống sau này. Nói như bà Biên, mẹ đẻ của May thì thấy hai đứa thích nhau nên cho về ở với nhau, cũng biết là anh em với nhau đấy, nhưng nghĩ không sao cả.

Cạnh nhà của vợ chồng Tùng - May cũng là một cặp trẻ con về sống chung với nhau, Xeo Văn Thoong và Xeo Thị Hồng lấy nhau khi cả hai đều 15 tuổi, và họ cũng là anh em họ hàng với nhau. Cũng vì chưa nhận thức được việc lấy chồng, lấy vợ là để tạo dựng một mái ấm gia đình mới, nên cả hai vẫn rất vô tư, suốt ngày nô đùa, trêu chọc nhau như trẻ con và sống dựa vào bố mẹ.

“Nó thích nhau thì cho về ở với nhau, sinh con đẻ cái trước, khi nào đủ tuổi thì đăng ký kết hôn sau. Cưới vợ cho con để có thêm người xuống suối, lên rẫy cũng là thói quen của người Khơ Mú, cả bản, cả làng này, từ xưa nay ai cũng như vậy cả, mình không theo không được”, anh  Xeo Phò Thoong, bố đẻ của Xeo Văn Thoong vô tư chia sẻ.

Hệ lụy “lấy chồng từ thuở 13”

Ông Mùa Xia Lữ, Giám đốc Trung tâm Dân số, Kế hoạch hóa gia đình huyện Kỳ Sơn thống kê, tình trạng hôn nhân cận huyết thống của đồng bào Mông ở Kỳ Sơn chiếm 15%-20% trong số các cặp vợ chồng kết hôn. Trong khi đó, theo Đại úy, Bác sỹ Nguyễn Bá Lương, Đồn Biên phòng Keng Đu, huyện Kỳ Sơn thì thực trạng tảo hôn đã để lại cho xã hội không ít hệ lụy, đặc biệt các cuộc hôn nhân cận huyết thống sẽ dẫn đến sinh ra những đứa con còi cọc, thậm chí tật nguyền, kém về thể chất và tinh thần.

Ở bên kia khu vực Tây Bắc xứ Nghệ, huyện địa đầu Quế Phong, Quỳ Châu, tình trạng lấy chồng, lấy vợ sớm từ lâu cũng là thực trạng chung của các tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Năm 2015, Ủy ban Dân tộc đã tiến hành khảo sát trên cả nước về vấn đề này và đưa ra những con số “giật mình”: Trong 53 cộng đồng thiểu số ở Việt Nam có đến 26,6% kết hôn sớm.

Trung bình cứ 4 cuộc hôn nhân thì có một cặp là tảo hôn, trong đó có tới 40/53 dân tộc thiểu số có tỷ lệ tảo hôn từ 20% trở lên, có 6 dân tộc thiểu số có tỷ lệ tảo hôn từ 50 - 60%. Chiếm tỉ lệ nhiều nhất là các cộng đồng người Mông, Xinh Mun, La Ha, Gia Rai, Raglay và Bru - Vân Kiều.

Một người vợ trẻ thẹn thùng khi được cán bộ đến nhà vận động, tuyên truyền đăng ký kết hôn.
Công tác vận động, tuyên truyền được chú trọng nhưng chưa mang lại hiệu quả.

Trước thực trạng này, Ủy ban Dân tộc đã đề xuất Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số” giai đoạn 2015 – 2025 và đã được Chính phủ phê duyệt. Mục tiêu đặt ra là "Giảm bình quân 2 - 3%/năm số cặp tảo hôn và 3 - 5%/năm số cặp kết hôn cận huyết thống đối với các địa bàn có tỷ lệ này còn cao".

Sau hai năm thực hiện, với nhiều hình thức đa dạng như truyền thông, xây dựng mô hình thí điểm ở các tỉnh có tỷ lệ tảo hôn cao và tổ chức tập huấn theo khu vực, Đề án đã mang lại kết quả bước đầu. Mặc dù vậy, xác định “cuộc chiến” với hủ tục tảo hôn là cam go và lâu dài, nên phía trước vẫn còn rất nhiều việc để làm. Điều quan trọng nhất, là phải làm thế nào để thay đổi được tư duy, nhận thức và cả phong tục, tập quán của bà con, để họ có cái nhìn đúng đắn hơn về hôn nhân gia đình, đó mới chính là gốc rễ để thay đổi được cách nghĩ, cách làm vốn đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người.

Thượng tá Tô Văn Hậu, Trưởng Công an huyện Kỳ Sơn cho biết: Mặc dù trong thời gian qua, các cấp chính quyền, đặc biệt là lực lượng công an cắm bản và bộ đội biên phòng đã có nhiều biện pháp tuyên truyền, vận động song tình trạng tảo hôn ở các xã biên giới Việt – Lào ở các huyện miền Tây Nghệ An vẫn gia tăng.

Khó khăn lớn nhất, ngoài việc đây là các xã biên giới, địa hình phức tạp, trình độ dân trí thấp, chủ yếu là đồng bào các dân tộc ít người, sinh sống rải rác trên các sườn núi nên rất khó để tiếp cận thì phong tục, tập quán lạc hậu cũng là nguyên nhân dẫn đến việc gia tăng tình trạng tảo hôn. Có những em gái học đến lớp 7, lớp 8 ở trường dân tộc nội trú, khi bị bạn trai đến bắt về làm chồng cũng không hề kháng cự, chấp nhận làm vợ người ta, coi như số mệnh đã định sẵn.

Theo thống kê, tại Trường Phổ thông dân tộc bán trú THCS Huồi Tụ, huyện Kỳ Sơn, năm học 2015- 2016 toàn trường có 16 em học sinh bỏ học lập gia đình, bình quân hằng năm xã này có khoảng 10 em học sinh bỏ học để lấy chồng. Thực trạng tương tự cũng xảy ra ở một số địa bàn khác.

Với một số già làng, trưởng bản là người dân tộc ít người, mặc dù họ nhận thức được song không thể tuyên truyền được vì con, cháu của mình cũng là nạn nhân của tảo hôn. Bởi, quan niệm của một số dân tộc như Mông, Khơ Mú… con gái mà có người để ý, hỏi cưới nếu không gả bán thì nhất định sẽ mang lại xui xẻo cho cả dòng họ.

Cũng bởi vậy, xuất phát từ tục bắt vợ bị biến tướng, nhiều em học sinh rời bản bám trường học bán trú đến lớp 7, lớp 8 đã phải xếp sách vở về bản lấy chồng khi có các chàng trai đến tận khu nội trú để bắt vợ. Kể chuyện này, Trung úy Vi Văn Phi, cán bộ công an cắm bản huyện Kỳ Sơn chia sẻ kỉ niệm bi hài khi đến vận động các gia đình không nên cho con em mình lấy chồng sớm.

Nghe tuyên truyền, vị phụ huynh nọ đồng ý nghe theo cán bộ, nhưng với một điều kiện là nếu sau này con gái họ không lấy được chồng nữa thì sẽ “bắt đền”, “phạt vạ” cán bộ.

Tại tỉnh Nghệ An, để giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết, các cấp chính quyền nơi đây đang quyết liệt thực hiện các biện pháp, kết hợp tuyên truyền vận động với những giải pháp dài hơi và mạnh tay hơn. Nói như ông Lô Thanh Nhất, Phó Chủ tịch UBND huyện Tương Dương thì thời gian sắp tới, cùng với các giải pháp khác, sẽ tiến hành một số biện pháp để có tính răn đe, giáo dục như xử lý hành chính, thậm chí cần thiết sẽ truy tố một số vụ vi phạm luật hôn nhân gia đình, để nâng cao nhận thức, tiến tới thay đổi được hành vi, từng bước hạn chế và chấm dứt hoàn toàn tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở các bản làng miền Tây xứ Nghệ.

Đề án giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Nghệ An, được triển khai từ năm 2015 đến 2020, do Ban Dân tộc tỉnh chủ trì. Trên cơ sở khảo sát số liệu về thực trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, sẽ xây dựng 8 mô hình điểm tại 8 xã, thuộc 4 huyện vùng dân tộc thiểu số có nguy cơ tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống cao để nhân rộng.

Đề án còn hướng đến các hoạt động tuyên truyền, vận động, tư vấn, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của đồng bào dân tộc thiểu số trong hôn nhân, tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống.

Thiên Thành
.
.