Vì sao xây Nhà máy lọc dầu ở Dung Quất?

Thứ Năm, 09/08/2007, 16:22

Trước nhiều ý kiến “bàn lùi”, Chính phủ - mà đứng đầu là Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã kiên quyết giữ vững quan điểm: Phải xây dựng Nhà máy lọc dầu ở Dung Quất, trước hết là để đảm bảo an ninh năng lượng cho đất nước và tạo đà phát triển kinh tế cho tỉnh Quảng Ngãi và cả một khu vực miền Trung.

Lễ động thổ được tiến hành trang trọng và tràn ngập niềm vui. Ai cũng tưởng là từ nay, việc xây dựng Nhà máy Lọc dầu (NMLD) Dung Quất sẽ được suôn sẻ và 3 năm sau, những lít xăng dầu đầu tiên mang nhãn hiệu “made in Vietnam” sẽ được trình làng. Nhưng ở đời, mấy ai học được chữ “ngờ”.

Giữa năm 1998, trong lúc PetroVietnam đang triển khai dự án  khá khẩn trương thì cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực châu Á diễn ra nhanh trên diện rộng với những ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến nền kinh tế của một số nước trong khu vực. Hàng loạt các công ty chế tạo thiết bị lọc dầu ở các nước châu Á lâm vào tình trạng phá sản; nhiều ngân hàng đứng bên bờ vực thẳm...

Việt Nam tuy không bị ảnh hưởng nhiều song khả năng huy động vốn để thực hiện dự án xây dựng NMLD số 1 dự báo sẽ gặp khó khăn. Trước tình hình đó, Chính phủ đã quyết định chọn đối tác nước ngoài để đầu tư thực hiện dự án theo hình thức liên doanh.

Ngày 25/8/1998, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên bang Nga đã ký Hiệp định liên Chính phủ về việc xây dựng, vận hành NMLD số 1 tại Dung Quất. Theo đó hai Chính phủ thống nhất giao cho Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) và Liên đoàn Kinh tế hải ngoại Nhà nước Liên bang Nga (Zarubezhneft) cùng làm chủ đầu tư của dự án.

Ngày 19/11/1998, hai phía đã thỏa thuận thành lập Liên doanh xây dựng và vận hành NMLD để trực tiếp thực hiện công tác quản lý xây dựng và vận hành NMLD Dung Quất. Thời gian hoạt động của Liên doanh dự kiến là 25 năm.

Ngày 28/12/1998, Công ty Liên doanh NMLD Việt - Nga (Vietross) chính thức được thành lập theo Giấy phép đầu tư số 2097/GP-KHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nước CHXHCN Việt Nam.

Theo Quyết định 560/CP-DK ngày 21/6/2001 của Chính phủ, tổng mức đầu tư cho dự án là 1,297 tỉ USD không bao gồm phí tài chính. Trong đó vốn pháp định là 800 triệu USD, chưa tính chi phí lãi vay trong thời gian xây dựng và một khoản chi phí của chủ đầu tư, chi phí bảo hiểm, chi phí xây dựng cảng, chi phí thuê đất và một số hạng mục chưa đầu tư. Tỉ lệ góp vốn của hai phía Việt Nam và Liên bang Nga là 50/50.

Việc liên doanh với Nga đã giải quyết được hai vấn đề lớn đó là kêu gọi được nguồn vốn đầu tư và huy động được các chuyên gia có kinh nghiệm để thực hiện dự án.

Trong giai đoạn Liên doanh, dự án NMLD Dung Quất được chia làm 8 gói thầu, trong đó có 7 gói thầu ÐPC (thiết kế, mua sắm, xây lắp) và 1 gói thầu san lấp mặt bằng nhà máy.

Công ty Liên doanh Vietross đã tiến hành đấu thầu, đàm phán, ký kết và triển khai được 7/8 gói thầu, trừ gói thầu ÐPC 1 - Gói thầu quan trọng nhất của dự án. Liên doanh cũng đã thu xếp đủ vốn cho dự án từ nguồn tín dụng của hai phía, đồng thời hoàn thành được một số hạng mục xây dựng cơ bản, ổn định cơ sở vật chất, phương tiện và các điều kiện làm việc của CBCNV; thiết lập cơ cấu tổ chức, bộ máy nhân sự, điều hành; ban hành các nội quy, quy trình và quy chế hoạt động v.v...

Trong quá trình Liên doanh Vietross đàm phán hợp đồng ÐPC 1 với Tổ hợp  nhà thầu Technip (Pháp), JGC (Nhật Bản), Tecnicas Reunidas (Tây Ban Nha), có những vấn đề phức tạp nảy sinh khiến cho tiến độ công việc kéo dài.

Hai bên trong Liên doanh không đạt được sự đồng thuận đối với một số vấn đề quan trọng như việc thuê tư vấn quản lý dự án, quyết định sử dụng các nhà thầu phụ, các nhà cung cấp thiết bị, phương án phân phối sản phẩm và một số giải pháp hoàn thiện cấu hình công nghệ, nâng cao chất lượng và chủng loại sản phẩm của nhà máy v.v...

Do vậy hai bên đã đề nghị Chính phủ hai nước quyết định chấm dứt Liên doanh. Phía Nga chấp thuận phương án rút khỏi dự án để chuyển giao lại toàn bộ quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong Liên doanh Vietross sang phía Việt Nam.

Thế là cuộc “hôn nhân” giữa hai bên đã nhanh chóng tan vỡ.  Đúng là một chuyện buồn bởi lẽ với những người làm dầu khí Việt Nam thì từ lâu, họ đã có tình cảm đặc biệt với những người Nga...

Trong quá trình tiếp tục triển khai dự án, nhận thấy cơ cấu sản phẩm theo thiết kế cũ trước đây có xăng 83 và dầu Diesel công nghiệp, là những loại sản phẩm không còn phù hợp với quy định mới của Nhà nước về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm xăng dầu nên Ban QLDA đã đề xuất phương án bổ sung 2 phân xưởng công nghệ xử lý LCO bằng Hyđrô và Izome hóa vào cấu hình nhà máy.

Với phương án này, nhà máy sẽ loại bỏ xăng 83 và dầu Diesel công nghiệp khỏi cơ cấu sản phẩm để sản xuất xăng Mogas 90-92-95 và dầu Diesel ôtô chất lượng cao, đảm bảo tiêu chuẩn quy định về chỉ tiêu chất lượng sản phẩm và đáp ứng nhu cầu của thị trường xăng dầu quốc tế.

Do bổ sung hai phân xưởng công nghệ nói trên vào cấu hình nhà máy, thiết kế tổng thể FÐÐD do Tư vấn Foster Wheeler lập trước đây cần phải điều chỉnh và phát triển cho phù hợp.

Trước yêu cầu đó, Thủ thướng Chính phủ đã cho phép PetroVietnam chỉ định lựa chọn nhà thầu phát triển thiết kế tổng thể và lập lại tổng dự toán của nhà máy. Ngày 18/2/2004, HĐQT Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đã phê duyệt Hợp đồng phát triển thiết kế tổng thể (FDC) được ký giữa PetroVietnam và Tổ hợp Nhà thầu Technip.

Có thể nói, việc phát triển thiết kế tổng thể là một quyết định cực kỳ quan trọng nhằm nâng cao chất lượng kỹ thuật công nghệ của NMLD Dung Quất, giải quyết được vấn đề giao diện, kết nối giữa các gói thầu ÐPC đồng thời cho phép nhà máy sản xuất ra cơ cấu sản phẩm có chất lượng cao, đón đầu và cạnh tranh được với thị trường xăng dầu trong khu vực cũng như thế giới.

Ngày 28/11/2005, lễ khởi công các gói thầu ÐPC 1+2+3+4 được Tổ hợp Nhà thầu Technip phối hợp với  PetroVietnam tổ chức tại công trường. Thời gian thi công, chạy thử và cho ra sản phẩm là 44 tháng, nghĩa là vào tháng 2-2009, dòng xăng dầu đầu tiên sẽ được “ra lò”.

Trở lại vấn đề mà bấy lâu nay dư luận vẫn có những ý kiến chưa “thông”, đó là tại sao lại đặt NMLD số 1 ở Dung Quất...

Tôi đặt câu hỏi này với ông Đỗ Quang Toàn, nguyên Vụ trưởng Vụ Dầu khí của Văn phòng Chính phủ, ông cho biết:  Đúng là việc đặt NMLD tại Dung Quất có không ít các ý kiến không đồng tình, mà đa số là xuất phát từ việc nhìn nhà máy theo hiệu quả kinh tế đơn thuần.--PageBreak--

Trong 4 địa điểm được lựa chọn thì xếp theo thứ tự, Long Sơn là đứng đầu, tiếp theo là vịnh Văn Phong rồi Nghi Sơn và cuối cùng là Dung Quất. Làm ở Long Sơn thì rõ ràng là thuận lợi nhất bởi lẽ Long Sơn gần với thành phố Vũng Tàu, có cơ sở hạ tầng phát triển, có hệ thống dịch vụ tốt... Đặt nhà máy tại đây, vốn đầu tư sẽ thấp, thời gian thi công nhanh và đặc biệt là đảm bảo được các điều kiện sinh hoạt tốt nhất cho đội ngũ chuyên gia.

Tập đoàn Dầu khí Total của Pháp “mê” nhất là Long Sơn. Vì vậy, khi Chính phủ quyết định đặt ở Dung Quất, họ đã kém “mặn mà” và đưa ra nhiều đòi hỏi mà chúng ta khó chấp nhận được.

Đặt nhà máy ở vịnh Văn Phong cũng rất thuận lợi, nhưng Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhận thấy tiềm năng du lịch lớn của vịnh nên quyết định không nên đặt cơ sở công nghiệp tại đây.

Như vậy là chỉ còn Nghi Sơn và Dung Quất. Đặt ở Nghi Sơn, đường vận chuyển dầu đến và sản phẩm hóa dầu đi các nơi sẽ xa hơn, không kinh tế lắm... Còn Dung Quất, ưu thế duy nhất mà nơi này có được là cảng nước sâu, nhưng khó khăn thiếu thốn thì vô cùng. Cơ sở hạ tầng hầu như không có gì. Khu vực cảng thì có địa chất phức tạp, thời tiết lại vô cùng khắc nghiệt...

Phía Bắc  tiêu thụ đến 80% lượng xăng dầu nhập khẩu, còn miền Trung chỉ chiếm 20%. Như vậy, nếu xăng dầu được lọc từ Dung Quất, chở đi tiêu thụ ở phía Nam cũng xa, phía Bắc cũng chẳng gần. Hơn nữa, nếu đặt ở Dung Quất, tốn thêm hàng trăm triệu USD để xây dựng cơ sở hạ tầng... Nhưng thế cũng chưa phải là hết. Vào những năm  từ 1994 đến 2000, giá dầu trên thế giới giảm thê thảm, cho nên có ý kiến cho rằng  nếu tính bỏ ra hàng tỉ USD để xây dựng NMLD thì không bằng mang dầu đi... thuê lọc (?!)

Trước những ý kiến đó, Chính phủ - mà đứng đầu là Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã kiên quyết giữ vững quan điểm, đó là: Phải xây dựng NMLD ở Dung Quất, trước hết là để đảm bảo an ninh năng lượng cho đất nước và thứ nữa là  tạo đà phát triển kinh tế cho tỉnh Quảng Ngãi và cả một khu vực miền Trung.

Quảng Ngãi, mảnh đất kiên cường cách mạng, nhưng điều kiện để phát triển kinh tế của tỉnh lại rất hạn chế. Tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên hầu như không có gì, ngoài việc đi ra biển... đánh cá. Đất đai nghèo nàn, chật hẹp; cả tỉnh không có được một khu du lịch, một bãi tắm; không có một nhà máy; tỉ lệ đói nghèo luôn ở mức cao... Hàng năm, Chính phủ phải rót về cho tỉnh từ 40 đến 60% ngân sách...

Nếu không xây dựng nhà máy tại đây thì cơ hội thoát nghèo cho Quảng Ngãi là rất khó. Mà như vậy, Đảng, Chính phủ có lỗi với dân. Cho nên dứt khoát phải xây dựng NMLD đầu tiên của quốc gia tại đây.

NMLD số 1 Dung Quất cũng là loại nhà máy “độc nhất vô nhị" trên thế giới. Bên cạnh việc chúng ta áp dụng những công nghệ lọc hóa dầu tiên tiến nhất của thế giới thì nhà máy còn sử dụng triệt để tất cả sản phẩm phụ của dầu mỏ.

Các NMLD trên thế giới thường chỉ có từ 3 đến 4 phân xưởng công nghệ, còn của ta là... 14 phân xưởng. Có thể nói là một tấn dầu thô được đưa vào nhà máy Dung Quất, thì sẽ có gần một tấn sản phẩm được  xuất xưởng. Hầu như không có thứ gì... bỏ đi.

Nhưng đặt nhà máy ở Dung Quất, chúng ta cũng phải tốn thêm hàng trăm triệu USD cho những công trình mà nếu xây dựng ở nơi khác thì chưa chắc đã cần.

Để cho nhà máy hoạt động thật ổn định trong khi lưới điện quốc gia ở miền Trung chưa ổn định thì phải xây dựng thêm một nhà máy điện 100MW.

NMLD có hơn 600 loại máy công cụ khác nhau, nhưng suốt một rẻo miền Trung, không có một nhà máy cơ khí nào đủ sức sửa chữa các thiết bị, cho nên phải đầu tư một trung tâm cơ khí.

Phải làm một con đê chắn sóng lớn nhất châu Á với chiều dài 1.600m, cao  hơn mặt biển 11m, chiều rộng thân đê cũng khoảng 11 mét... Để làm con đê này, phải dùng 1,3 triệu m3 đá, và phủ bên ngoài 21.000 cấu kiện bêtông với nhiều kích cỡ khác nhau... Con đê này không những bảo vệ an toàn cho khu  cảng xuất sản phẩm mà còn chắn sóng cho toàn bộ vịnh Dung Quất, đảm bảo an toàn cho khu cảng tổng hợp, cảng chuyên dụng, cảng công vụ... Con đê này nằm trên một khu vực địa chất cực kỳ phức tạp và để xử lý các túi bùn dưới biển, phải tốn thêm gần 40 triệu USD.

Phải xây dựng hệ thống đường ống dẫn dầu thô và sản phẩm dài gần 10km (trên thế giới chưa có NMLD nào lại có hệ thống đường ống dẫn - xuất dài thế này). Do đường ống dài nên tốn năng lượng vận hành; phải xây thêm bể chứa trung gian; công tác bảo vệ cũng phải được đầu tư đặc biệt...

Phải làm cả hệ thống đường sá và cơ sở hạ tầng cho một khu vực rộng lớn...

Nhưng nếu tính hiệu quả tổng hợp của nhà máy thì lại “rất có lãi”.

Bây giờ, bất cứ ai  đến Quảng Ngãi... cũng đều dễ dàng nhận thấy sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của một tỉnh trước đây được coi là khó khăn nhất nước. Vậy mà từ năm 2004 trở lại đây, tăng trưởng GDP của Quảng Ngãi luôn ở mức trên 11% và năm ngoái, Quảng Ngãi đã hiên ngang gia nhập câu lạc bộ “1.000 tỉ”. Cơ cấu kinh tế đã được chuyển dịch theo đúng hướng: Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ và tạo ra sự phát triển đồng bộ trên toàn tỉnh.

Việc xây dựng NMLD Dung Quất còn là tiền đề thúc đẩy các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tiếp tục đầu tư vào khu kinh tế Dung Quất trên các lĩnh vực công nghiệp hóa chất, công nghiệp cơ khí, đóng sửa tàu biển, luyện cán thép, vận tải, điện tử.

Có được kết quả đó, chính là nhờ một phần lớn từ NMLD Dung Quất.

Việc xây dựng NMLD tại Dung Quất là một quyết định sáng suốt và có tầm nhìn rất xa của Chính phủ - đó là tạo động lực phát triển kinh tế cho  Quảng Ngãi và một loạt các tỉnh miền Trung. Đó là điều mà không phải nhiều người đã nhận ra, nếu xét về khía cạnh kinh tế đơn thuần.

Hiệu quả tổng hợp từ NMLD số 1 Dung Quất là một minh chứng cho đường lối xây dựng một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, Nhà nước ta.

Như vậy là không còn gì phải bàn cãi về tính đúng đắn trong việc xây dựng NMLD Dung Quất. Đảng, Chính phủ quyết tâm cao; tiền  vốn đầu tư hơn 2,5 tỉ USD chúng ta lo đủ. Kế hoạch xây dựng nhà máy trong 44 tháng được Quốc hội nhất trí thông qua; các tổng công ty lắp máy, xây dựng hùng mạnh nhất của Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông - Vận tải, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam hừng hực khí thế dẫn quân “xông” vào Dung Quất...

Nhưng... lại thêm một chữ nhưng! Thế mới khổ chứ?

(Còn nữa)

Ảnh trong bài: Thanh Hải
.
.