Năm 1954, người Mỹ đã định ném 3 quả bom nguyên tử xuống… Điện Biên Phủ như thế nào?

Thứ Ba, 13/05/2014, 10:30

Cho đến nay, Nhật Bản vẫn là quốc gia duy nhất bị Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử vào năm 1945, khiến hàng trăm ngàn người dân vô tội bị thiệt mạng. Nhưng nhiều người còn chưa biết rằng đầu năm 1954, trong những ngày Điện Biên Phủ sắp thất thủ, Việt Nam đã tránh được một thảm họa hạt nhân chỉ trong gang tấc.

Nghĩa là, lẽ ra năm 2014 này chúng ta sẽ kỷ niệm tròn 60 năm… Mỹ ném bom nguyên tử xuống Điện Biên Phủ! Sự thật khủng khiếp này đã được "giải mã" như thế nào?

Ngay sau khi đánh bại Tổng thống Harry S. Truman để tiếp quản Nhà Trắng (20/1/1953) Tổng thống thứ 34 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ Dwight D.Eisenhower, đã tỏ ra quan tâm đặc biệt đến Đông Dương, trong đó có Việt Nam.

Vừa nhậm chức, Eisenhower đã cho thành lập ngay một Ủy ban đặc biệt về Đông Dương (The Special Committee on Indochina) do Walter B. Smith, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, làm Trưởng ban và Nhóm công tác đặc biệt về Đông Dương (The Special Working Group on Indochina) do tướng Grave B. Erskine cầm đầu.

Những năm 1953 - 1954 Mỹ đã chi tiền để quân Pháp "đánh thuê" ở Đông Dương?

Ngày 30/7/1953, Quốc hội Mỹ đã chuẩn chi 400 triệu đôla để hỗ trợ Pháp theo đuổi chiến tranh ở Đông Dương. Hai tháng sau, ngày 30/9, Chính phủ Mỹ lại cấp thêm 385 triệu đôla nữa. Mỹ hứa năm 1954 sẽ tăng viện trợ cho Pháp tại Đông Dương lên gấp đôi. Mỹ cũng chuyển giao cho Pháp nhiều trang bị, vũ khí, trong đó có 123 máy bay và 212 tàu chiến các loại. Sau này, người ta đã tính rằng: Hồi đó, Mỹ đã trang trải đến 2/3 chi phí cho cuộc chiến tranh Đông Dương với hàng tỷ đôla tiền của!

Một nghiên cứu cho biết: Năm 1953, viện trợ của Mỹ, cả kinh tế và quân sự cho Pháp đã lên tới 2,7 tỉ đôla trong đó viện trợ quân sự là 1,7 tỉ đôla và năm 1954 Mỹ viện trợ thêm 1,3 tỉ đôla nữa. Tổng cộng Mỹ đã cung cấp cho Pháp trên 40 vạn tấn vũ khí, gồm 360 máy bay, 347 tàu thuyền các loại, 1.400 xe tăng và xe bọc thép, 16.000 xe vận tải, 17,5 vạn súng cá nhân. Tới năm 1954, 78% chiến phí của Pháp ở Đông Dương là do Mỹ chi trả.

Chưa hết, để động viên Pháp, Eisenhower đã cử Phó tổng thống Richard Nixon sang Việt Nam (gần 20 năm sau, trong chiến tranh công khai với Việt Nam, ông ta là Tổng thống Mỹ). Ngày 4/11/1953, Nixon tuyên bố tại Hà Nội: "Không thể hạ vũ khí cho đến khi nào đạt được chiến thắng hoàn toàn". Rồi ông ta đến tận Ghềnh (Ninh Bình) để thăm quân Pháp đang tiến hành cuộc hành quân mang tên Hải Âu tại đây.

Bom nguyên tử.

Thời gian này ở tất cả các cấp bộ trong quân đội viễn chinh Pháp đều có cố vấn Mỹ. Người Mỹ có thể đến bất cứ nơi nào kiểm tra tình hình không cần sự chấp thuận của Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp. Sự phụ thuộc quá nhiều của Pháp vào Mỹ khiến sau này tướng Henri Navarre than phiền trong hồi ký: "Địa vị của chúng ta đã chuyển thành địa vị của một kẻ đánh thuê đơn thuần cho Mỹ".

Chính phủ Pháp muốn tìm một giải pháp hòa bình có thể chấp nhận được để chấm dứt cuộc chiến nhưng mặt khác họ muốn duy trì quyền lợi tại Đông Dương. Cuộc chiến sang năm thứ 9 đã chứng tỏ Pháp chỉ còn cách duy nhất là tìm một "lối thoát danh dự", nếu không muốn "dâng" Đông Dương cho Mỹ.

Máy bay Mỹ sơn cờ Pháp và phi công Mỹ lái…

Khi tướng H.Navarre bắt đầu thực hiện cuộc hành quân mang mật danh "Hải Ly" vào ngày 20/11/1953, thì lần lượt 16.000 quân Pháp đã được những chiếc máy bay vận tải C-47 do Mỹ viện trợ, đưa đến lòng chảo Điện Biên Phủ, dựng lên một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương thời bấy giờ, với hy vọng sẽ "nghiền nát" quân đội của Việt Minh.

Ngày 20/2/1954, phía Mỹ đã viện trợ cho Pháp thêm 40 máy bay các loại, từ loại ném bom B-26 đến các loại máy bay vận tải C-47 và C-119... Cũng trong tháng đó, Mỹ còn gửi sang Việt Nam 200 lính kỹ thuật thuộc Đơn vị phục vụ Không quân số 81 để giúp Pháp bảo trì và sửa chữa các máy bay mà Mỹ đã cung cấp cho Pháp.

Trước đó, sau khi tướng H. Navarre của Pháp đề nghị giúp đỡ, Mỹ đã quyết định trợ giúp Pháp 12 máy bay C-119 cùng 37 phi công, nhưng lại yêu cầu các máy bay mang phù hiệu của Pháp, để tránh sự chỉ trích ở trong nước và dư luận quốc tế.

Giữa tháng 3/1954, khi tình hình chiến sự bi đát, Chính phủ Mỹ vội vàng giúp Pháp lập "cầu hàng không" từ Hà Nội lên Điện Biên Phủ. Báo U.S News and World Report tường thuật như sau: "Mỗi ngày, gần 100 máy bay vận tải DC-3 đã hạ cánh xuống sân bay trong tầm súng cối của Cộng sản, vận chuyển từ 200 đến 300 tấn hàng tiếp tế. Thêm vào đó là 30 máy bay vận tải cỡ lớn C-119 mỗi sáng thả dù từ 100 đến 150 tấn hàng tiếp tế khác. Tất cả các máy bay của "cầu hàng không" này đều do Mỹ giúp".

Không chỉ giúp máy bay, Mỹ còn cung cấp cả người lái. Các phi công Mỹ đã âm thầm thực hiện gần 700 phi vụ tại Điện Biên Phủ, trong cuộc chiến được họ mô tả là "một trong những trận đánh vĩ đại của thế kỷ 20". Bởi thế, vai trò của 37 phi công Mỹ trong cuộc bao vây 57 ngày ở Điện Biên Phủ năm 1954 từ trước tới nay còn là một bí mật, rất ít người biết tới.

Hơn 50 năm sau cuộc chiến, vào tháng 2/2005, người Pháp đã công khai "ghi công" cho phi công Mỹ tại Điện Biên Phủ, bằng cách trao tặng huân chương cho những phi công Mỹ từng tham gia những chuyến bay bí mật hồi năm 1954, để giúp quân Pháp đang bị thất thế ở Điện Biên Phủ. Họ đã chọn ra 7 cựu phi công Mỹ để trao "Bắc đẩu Bội tinh" và 6 người trong số đó đã dự lễ trao Huân chương tại Washington.

Hãng thông tấn Pháp AFP đã trích lời Đại sứ Pháp ở Washington hồi đó là Jean David Levitte nói tại buổi lễ trao Bắc đẩu Bội tinh (do Hoàng đế Napoleon lập ra năm 1802 và là một trong những Huân chương cao quý nhất của nước Pháp) cho các phi công Hoa Kỳ rằng: "Nước Pháp muốn biểu dương sự dũng cảm của những người đã có nhiều chuyến bay tại Điện Biên Phủ".

Chiến dịch "Chim Kền Kền" ném bom nguyên tử

Khi Điện Biên Phủ có nguy cơ thất thủ, để cứu vãn tình thế Đô đốc Arthur W.Radford, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, đã soạn ra kế hoạch can thiệp quân sự trực tiếp vào Việt Nam. Bản kế hoạch tuyệt mật này được gọi là "Chiến dịch Kền kền" (Operation Vulture).

Theo đó, Mỹ sẽ dùng 60 máy bay ném bom hạng nặng B-29 Superfort (mỗi chiếc có thể chở 8 tấn bom) cất cánh từ căn cứ không quân Clark Field ở Philippines để ném bom rải thảm, mỗi đợt khoảng 450 tấn bom, xuống các vị trí của bộ đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ, đồng thời dùng 150 máy bay chiến đấu (từ các hàng không mẫu hạm của Hạm đội số 7 hoạt động trong Vịnh Bắc Bộ) để hộ tống các máy bay ném bom nói trên…

Để che giấu bàn tay can thiệp của Mỹ, Radford đề nghị xóa bỏ phù hiệu của không quân Mỹ trên thân máy bay và lập một phi đoàn tình nguyện quốc tế, bằng cách thuê phi công thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Ngoài loại bom thường (mỗi quả nặng 2 tấn), Radford còn đề nghị sử dụng 3 quả bom nguyên tử chiến thuật (tactical atomic bombs). Theo các chuyên gia của Lầu Năm Góc tính toán thì "Chỉ cần 3 quả bom nguyên tử chiến thuật sử dụng cho đúng, thì cũng đủ nghiền nát lực lượng Việt Minh ở Điện Biên Phủ" lúc bấy giờ.

Kế hoạch tuyệt mật trên của Radford đã được Tổng thống Mỹ Eisenhower, Phó tổng thống Nixon, Dulles, tướng Nathan F.Twining (Tham mưu trưởng Không quân Mỹ)... tán thành!

Rất may, khi đại diện phe "diều hâu" Mỹ hồi ấy là Ngoại trưởng Dulles và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Raford đưa "Chiến dịch Kền kền" ra thăm dò tại Quốc hội đã bị nhiều ý kiến phản đối. Hầu hết các nghị sĩ đều lắc đầu, bởi họ sợ phải đưa lục quân vào Việt Nam và rơi vào một cuộc chiến tranh nữa giống như ở bán đảo Triều Tiên vừa đình chiến.

Lyndon Johnson (sau này là Tổng thống Mỹ), thủ lĩnh phe đa số trong Thượng viện Mỹ, nhấn mạnh rằng: Thứ vũ khí này sẽ quét sạch quân đội của cả hai phe. Vì không thể tính được bao nhiêu đơn vị lính Pháp có thể sống sót trong một cuộc tấn công bằng bom nguyên tử.

Ngay Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ Raford cũng không được các Tham mưu trưởng đồng thuận. Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ là tướng Matthew Ridgway cũng đã kiên quyết phản đối việc đưa bộ binh vào Đông Dương! Các nghị sĩ đã đặt điều kiện: Quốc hội sẽ không ủng hộ việc Mỹ can thiệp quân sự vào Việt Nam chừng nào Chính phủ không được các đồng minh, đặc biệt là nước Anh, cam kết có hành động chung.

Nhưng ngày đó nước Anh, một đồng minh thân cận của Mỹ, cũng không ủng hộ "Chiến dịch Kền kền". Họ chỉ mong chiến tranh Đông Dương sớm kết thúc, thông qua đàm phán ở Genéve... Trong khi Mỹ thì muốn có hành động tập thể dựa trên một thỏa thuận chính trị với nước Pháp và nước Anh.

Và như thế, nếu "Chiến dịch Kền kền" được Mỹ thực hiện năm 1954, Việt Nam sẽ phải chịu thảm họa hạt nhân như Nhật Bản 9 năm trước đó. Chẳng ai biết được hậu quả khôn lường, khi những quả bom nguyên tử được Mỹ ném xuống, sẽ có thêm bao nhiêu nạn nhân của thứ vũ khí khủng khiếp và cả nhân loại đời đời lên án ấy?

Hà Nội, tháng 4 năm 2014

Đặng Vương Hưng
.
.