Những người Mỹ cuối cùng tử thương trong chiến tranh Việt Nam: Tổn thất ngoài dự kiến

Thứ Ba, 05/05/2020, 09:35
Tổng thống Ford nhận được tin Khmer Đỏ đã phóng thích toàn bộ 39 thành viên thủy thủ đoàn cùng tàu SS Mayaguez. Và trong khi bản thông báo của Khmer Đỏ đang chờ dịch sang tiếng Anh cũng như xác minh tính chân thực của nó thì ở Koh Tang, 15 lính Mỹ đã chết…

Sáng 15/5/1975, 8 trực thăng MH-53 chở 200 thủy quân lục chiến cất cánh từ sân bay Utapao, Thái Lan đến đảo Koh Tang. Đầu giờ chiều cùng ngày, khi cuộc chạm súng ở Koh Tang vẫn đang diễn ra khốc liệt thì ở Washington, Tổng thống Ford nhận được tin Khmer Đỏ đã phóng thích toàn bộ 39 thành viên thủy thủ đoàn cùng tàu SS Mayaguez. Và trong khi bản thông báo của Khmer Đỏ đang chờ dịch sang tiếng Anh cũng như xác minh tính chân thực của nó thì ở Koh Tang, 15 lính Mỹ đã chết…

Hành động

Hôm đó, 6 giờ sáng, 4 trực thăng MH-53 hạ độ cao xuống sát mặt biển, 4 chiếc còn lại làm nhiệm vụ dự bị trên không. Điểm đổ quân là những dải cát nhỏ nằm sát mép nước ở mũi phía bắc đảo Koh Tang, đủ rộng cho máy bay hạ cánh. Lúc ấy, Em Som, chỉ huy Khmer Đỏ trên đảo khi nghe tiếng nổ của động cơ trực thăng đã ra lệnh cho lính của mình chạy vào các chiến hào, nơi đặt các khẩu súng phòng không 12,7mm cùng các loại súng cá nhân khác.

Lính thủy Mỹ đổ bộ xuống đảo Koh Tang.

Som ra lệnh bắn, bất kỳ máy bay đó thuộc quốc gia nào bởi lẽ ngày 10/5/1975, Khmer Đỏ đã đưa quân chiếm đảo Thổ Chu của Việt Nam, bắt gần 500 thường dân Việt đưa về Kampong Som rồi giết chết. Vì thế, Em Som ngờ rằng trực thăng là của bộ đội Việt Nam.

Chiếc MH-53 mã danh Knife 21 do Trung úy phi công John H. Delham cầm lái là chiếc đầu tiên đổ quân xuống bãi biển.

Họ không ngờ Khmer Đỏ phòng thủ mạnh hơn họ nghĩ vì theo phân tích của các chuyên gia không ảnh, dựa trên những hình ảnh do máy bay trinh sát P-3 Orion gửi về thì lực lượng Khmer Đỏ trên đảo chỉ khoảng 20 đến 30 quân nhưng thực tế con số này là hơn 120. Khi trực thăng còn cách mặt đất chưa đầy 30m, Delham nhìn thấy một luồng lửa sáng rực từ một cái hố được ngụy trang bởi những cành cây, nhắm thẳng vào mình. Sức mạnh của những viên đạn 12,7mm xé toạc lớp vỏ nhôm trên thân chiếc MH-53.

Cố gắng kéo cần lái về bên phải, Delham cho trực thăng nghiêng ra biển. Bay thêm được chừng vài trăm mét, chiếc MH-53 mất lực nâng, đâm đầu xuống nước. 13 thủy quân lục chiến không ai sống sót nhưng may mắn là Delham và phi công phụ được một trực thăng CH-53 kéo lên.

Bay sát chiếc MH-53 thứ nhất là chiếc thứ hai, mã danh Knife 22 bị đạn phòng không bắn thủng khoang nhiên liệu nhưng nhờ có cơ chế tự hàn kín nên nó vẫn đáp được. Vừa hạ cánh xuống và vừa chạy ra khỏi máy bay, 12 lính thủy Mỹ được quân Khmer Đỏ mặc quần áo đen, đón tiếp bằng từng loạt tiểu liên AK và súng phóng lựu B-40, B-41 khiến nhiều người bị thương.

Với chiếc MH-53 thứ 3, mã danh Knife 23, bị 2 khẩu phòng không 12.8mm nhắm vào đầu lẫn đuôi, nã đạn liên hồi khiến động cơ bị vỡ và cánh quạt đuôi gãy rời. Cũng như chiếc thứ nhất, nó chẳng bao giờ còn có thể bay được nữa nhưng 20 lính thủy và phi hành đoàn 3 người đã kịp thoát ra ngoài.

Ở phía Tây của mũi phía Bắc đảo Koh Tang, tình hình có vẻ còn tồi tệ hơn khi chiếc trực thăng mã danh Knife 31 do Thiếu tá Howard A. Corson điều khiển trúng đạn vào buồng lái, giết chết phi công phụ. Corson phải cho trực thăng đáp xuống biển, nước tràn vào cả sàn máy bay. Trung sĩ John D. Haston kéo một số lính thủy bị kẹt trong khoang thoát ra ngoài nhưng không phải là tất cả. Khi Haston với tay lôi người lính thủy cuối cùng thì mới hay anh ta đã chết.

Ở bãi biển phía bắc, 2 trực thăng chở quân mã danh Knife 41 và Knife 43 vẫn không thể đáp xuống bởi một khẩu 12,7mm liên tục nã lên. Trung sĩ Tulifua Tuitele, sinh trưởng ở đảo Samoa thuộc Mỹ là một tay bắn tỉa siêu hạng, lúc ấy đang ở bãi đáp phía tây gọi cho phi công lái chiếc Knife 41 qua máy truyền tin: “Tôi sẽ lo chuyện này”.

Nói dứt lời, Tuitele xách khẩu súng trường M-14 có gắn ống ngắm lao về bãi biển nơi phát ra tiếng súng. Khoảng 15 phút sau, Tuitele đã nhìn thấy mục tiêu. 3 lính Khmer Đỏ mặc quần áo đen, cổ quấn khăn rằn, đầu đội nón “bánh tiêu” đang hướng nòng súng lên trời, nhả đạn liên hồi. Cú bắn tỉa đầu tiên Tuitele nhắm vào tên xạ thủ. “Bùm” một phát, khẩu 12,7 mm câm bặt.

Phát thứ 2 Tuitele bắn tên khẩu đội trưởng còn phát thứ 3 dành cho tên tiếp đạn. Khi thủy quân lục chiến từ trực thăng nhảy xuống, họ thấy Tuitele từ một bụi rậm đi ra, trên tay anh ta là khẩu AK-47, 1 gói thuốc lá Campuchia và 1 đôi dép râu. Chưa kịp hỏi han thì bất ngờ lại có nhiều loạt đạn xối xả về phía họ. Fred Morris, lính thủy Mỹ xách khẩu đại liên M-60 leo lên cây cổ thụ. 

Đứng tựa lưng vào một chảng ba, Morris kẹp khẩu M-60 vào nách rồi bắn cả dây đạn 100 viên vào một mô đất cách anh ta chừng 100m. Tới khi Tuitele kêu Morris ngừng bắn, anh ta mới thấy 5, 6 xác lính Khner Đỏ nằm bất động dưới giao thông hào.

Đến trưa, Khmer Đỏ hết đạn. Những bóng áo đen thoát ly khỏi công sự chiến đấu, lao vun vút vào rừng. Thủy quân lục chiến Mỹ chiếm từng căn hầm, lục soát từng ngôi nhà nhưng không tìm ra nơi giam giữ thủy thủ đoàn của tàu SS Mayaguez.

Họ củng cố lại các vị trí phòng thủ để chuẩn bị cho những trận phản kích nhưng 2 giờ chiều, đột ngột họ được lệnh rút lui mà nguyên nhân là nửa giờ trước đó, Đài Phát thanh Tiếng nói Campuchia Dân chủ đã truyền đi một thông báo của Hu Nim, Bộ trưởng Thông tin Chính phủ Campuchia dân chủ, nội dung cho biết sự kiện xảy ra ở đảo Koh Tang đã đi quá xa, và Campuchia Dân chủ chỉ muốn bảo vệ lãnh hải của mình. Vì thế Campuchia Dân chủ quyết định phóng thích chiếc SS Mayaguez cùng toàn bộ 39 người trên tàu.

Một lần nữa, số phận đen đủi lại ập lên đầu nhóm giải cứu. Trên đường rút về Utapao, một trực thăng CH-53 bị rơi do trục trặc máy móc, giết chết 18 nhân viên an ninh của Không quân Mỹ và 5 thành viên phi hành đoàn, đưa tổng số người chết lên 38.

Số phận những người bị bỏ rơi

14 giờ 45 phút ngày 15/5,  chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh. Kiểm điểm lại quân số, lính thủy báo cho phi hành đoàn biết họ còn thiếu 3 người. Đó là Trung sĩ Joseph Hargrove, Hạ sĩ Gary Hall và Binh nhất Danny Marshall. Cả 3 giữ khẩu đại liên Browning, có nhiệm vụ bảo vệ sườn phía Tây để lính thủy chiếm đảo.

Tiutele (trái) miệng ngậm điếu thuốc Campuchia, tay cầm súng AK lấy được từ khẩu đội phòng không 12,8mm của Khmer Đỏ.

20 giờ, thủy quân lục chiến, không quân và lực lượng đặc nhiệm hải quân (SEAL) lên kế hoạch quay lại đảo Koh Tang để tìm kiếm 3 lính thủy mất tích. Tuy nhiên, Phó đô đốc R.T. Coogan nói rằng ông muốn chờ đến bình minh vì ông tin là  Khmer Đỏ đã kịp có thời gian để tăng thêm viện binh, cũng như tổ chức lại các vị trí phòng thủ.

Việc thả quân vào ban đêm chắc chắn sẽ gây thêm tổn thất trong lúc vẫn chưa rõ 3 lính thủy thất lạc còn sống hay đã chết. Ý định của Coogan là khi trời sáng, ông sẽ cho một nhóm SEAL không vũ trang do Trung sĩ Tom Coulter dẫn đầu, xuống đảo cùng lá cờ trắng.

Họ sẽ giải thích với Khmer Đỏ rằng họ chỉ muốn thu hồi thi thể của những lính thủy đã chết nhưng Tom Coulter từ chối thi hành vì “đây là nhiệm vụ tự sát”, trong lúc 2 người khác là McNemar và James Davis lại tình nguyện nhận công việc này. Cuối cùng, khi Phó đô đốc R.T. Coogan trình bày kế hoạch lên Đô đốc Gayler, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương thì Gayler bác bỏ.

Sáng 16/5, lính Khmer Đỏ thận trọng tiếp cận các bãi biển trên đảo Koh Tang vì họ không chắc người Mỹ đã rút hết bởi lẽ ở ngoài biển, cách đảo Koh Tang khoảng 5km, qua ống nhòm họ vẫn thấy một tàu chiến Mỹ (là chiếc USS Wilson) lượn lờ cùng những trực thăng bay lên, đáp xuống.

Trên bãi biển, lính Khmer Đỏ thấy nhiều thứ bị thủy quân lục chiến Mỹ bỏ lại, từ chân vịt, kính lặn cho đến các loại thực phẩm dã chiến. Thậm chí còn có cả 2 khẩu súng ngắn cùng một máy bộ đàm dùng cho phi công, trong loa vẫn vang lên từng tràng những tiếng “bip, bip”. Ở một chỗ khác, lính Khmer Đỏ đếm được 6 xác lính Mỹ, tất cả đều ngập trong nước biển. Mao Ran, người chỉ huy nhóm Khmer Đỏ gọi một chiếc ghe đến, chất 6 cái xác lên rồi đưa đi.

Ngày 18/5, một lính Khmer Đỏ trên đường ra bãi biển thì bất ngờ nhìn thấy một bóng người chạy vụt vào rừng. Anh ta quát lớn bằng tiếng Campuchia: “Bon tâu na? - Mày đi đâu?” nhưng người kia không đáp lại. Gần mép nước, người lính Khmer Đỏ phát hiện những dấu hiệu kỳ lạ vẽ rất lớn trên nền cát nên anh ta vội quay về báo cho Mao Ran. So sánh dấu giày và các hình vẽ, Mao Ran nhận định đó chỉ có thể là giày trận của lính Mỹ, còn các hình vẽ là tín hiệu gọi máy bay.

Lập tức, một cuộc truy lùng được Khmer Đỏ tiến hành nhưng không phát hiện thêm điều gì mặc dù diện tích đảo Koh Tang chỉ có 5,9km vuông. Ba hôm sau, lính Khmer Đỏ nhận thấy vào ban đêm, có ai đó đã lấy trộm cơm và cá từ bếp ăn của họ. Việc ấy tiếp tục diễn ra trong 2 đêm nữa nên lính Khmer Đỏ quyết định điều tra. Các dấu vết để lại cho thấy kẻ trộm xuất phát từ một cánh rừng cách doanh trại khoảng 2km rồi theo con đường mòn đến nhà bếp.

9 giờ tối, 8 lính Khmer Đỏ chia làm 2 tốp, phục kích ở hai bên rìa đường mòn. Đến 10 giờ, họ bắt được 2 lính thủy Mỹ. Khi bị giải về căn cứ, bằng cách dùng tay ra dấu cộng với các hình vẽ minh họa, 2 lính thủy Mỹ cho biết họ tên là Gary Hall và Danny Marshall. Nhóm của họ gồm 3 người, bị bỏ rơi trong trận tập kích lên đảo Koh Tang. Một người trong số họ (là Trung sĩ Joseph Hargrove) khi bị thương, đã bị lính Khmer Đỏ dùng lưỡi lê đâm chết.

Gary Hall và Danny Marshall được cho ăn uống tử tế nhưng Em Som, chỉ huy Khmer Đỏ trên đảo Koh Tang không thể liên lạc với cấp cao hơn ở Kampong Som vì hệ thống truyền tin đã bị máy bay Mỹ phá hủy. Phải mất 1 ngày nữa, một chiếc thuyền gỗ mới đến Koh Tang, đưa 2 lính thủy về Kampong Som.

Khi thuyền cập cảng, Gary Hall và Danny Marshall bị trói nằm dài trên chiếc xe bò, đi thẳng đến văn phòng của Meas Samouth, chỉ huy lực lượng hải quân Khmer Đỏ tại Kampong Som. Sau này, trước tòa án xét xử tội ác chiến tranh, Em Som khai: “Tôi đã trực tiếp chứng kiến cái chết của 2 người Mỹ. Họ bị giết theo lệnh của Meas Samouth. Họ không bị bắn, họ bị đập vỡ sọ bằng chày”.

Kết quả trận tập kích đảo Koh Tang nhằm giải cứu tàu SS Mayaguez đã đem đến một sự thật đáng buồn: 41 lính Mỹ chết, 50 người bị thương, 2 trực thăng bị bắn rơi, 1 chiếc rơi do lý do kỹ thuật, 4 trực thăng khác bị bắn hư hỏng nặng. Đây được coi là trận đánh cuối cùng của quân đội Mỹ có liên quan đến chiến tranh Việt Nam, tên của 3 lính thủy bị bỏ rơi cũng là 3 cái tên cuối cùng được khắc lên bức tường đá đen, tưởng niệm những lính Mỹ đã chết trong chiến tranh Việt Nam. Riêng tàu SS Mayaguez, năm 1979 nó được tháo rỡ để lấy sắt thép tái chế.

45 năm sau, tháng 4/2020, hồ sơ về tàu SS Mayaguez mới được minh bạch hóa hoàn toàn. Theo đó, các thành viên Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ dưới sự lãnh đạo của Ngoại trưởng Henry Kissinger đã không tin tưởng Bộ trưởng Quốc phòng James R. Schlesinger, khiến Schlesinger bị Tổng thống Ford cách chức mặc dù Schlesinger và những quan chức ở Lầu Năm Góc đã cố gắng giảm thiểu rủi ro đến mức tối đa bằng cách ra lệnh cho máy bay ngừng bắn vào các thuyền cao tốc của Khmer Đỏ, cũng như không đồng ý sử dụng B-52 ném bom.

Hơn nữa, tình báo không ảnh cho biết có khoảng 20 đến 30 lính Khmer Đỏ trên đảo Koh Tang nên Bộ Quốc phòng chỉ điều động 100 lính thủy trực tiếp tham gia cuộc giải cứu trong lúc lực lượng Khmer Đỏ trên đảo là gần 150 người, chiến đấu trên một địa bàn đã quá quen thuộc, dẫn đến “những tổn thất ngoài dự kiến”...

Vũ Cao (Theo Wars History)
.
.